Gia hóa tôm bố mẹ: Vì sao và cách nào?

Đánh giá bài viết

Cũng như nhiều nước khác có nghề nuôi tôm, Việt Nam đang cần nguồn tôm bố mẹ số lượng lớn và đủ yêu cầu chất lượng để sản xuất con giống. Gia hóa tôm bố mẹ phải chăng là một xu hướng tất yếu?

Vài nét về gia hóa tôm

Gia hóa (domestication) vật nuôi được hiểu là một quá trình thuần hóa, làm thay đổi mức độ di truyền tính trạng vật nuôi, qua quá trình chọn lọc tạo ra những tính trạng tốt nhất phục vụ con người. Tôm là một trong những đối tượng thủy sản được gia hóa nhằm tăng sản lượng và kháng bệnh tốt hơn. Tôm bố mẹ sạch bệnh (SPF), kháng bệnh (SPR) là sản phẩm của một quá trình gia hóa. Thành công trong việc gia hóa tôm thẻ chân trắng (TTCT) Thái Bình Dương (Pacific white shrimp) tại Mỹ là bước ngoặt của nuôi trồng thủy sản đầu những năm 1990. Sự phát triển dòng TTCT sạch bệnh tại Mỹ dẫn đến việc áp dụng nhanh chóng loại tôm này từ Western Hemisphere đến châu Á. Tôm gia hóa giúp tăng sản lượng và kích hoạt xu hướng giá tôm thấp hơn.

Ở Thái Lan, việc nhập khẩu TTCT gia hóa sạch bệnh được thực hiện từ năm 2002. Tôm này hầu hết có nguồn gốc Hawaii, tăng trưởng nhanh, kích cỡ lớn đồng đều; đặc biệt, có khả năng thả nuôi mật độ lớn, năng suất 12 – 20 tấn/ha (trong khi tôm sú 6 – 8 tấn/ha). Từ đó Thái Lan dần trở thành nước xuất khẩu tôm lớn nhất. Năm 2003 – 2007, Thái Lan chi 18 triệu USD cho chương trình phát triển gia hóa tôm sú bố mẹ. Hiện, Thái Lan là nhà cung cấp tôm bố mẹ lớn nhất châu Á.

Dự án gia hóa tôm sú của Ấn Độ được khởi xướng năm 2005 tại quần đảo Andaman và Nicobar, nhằm hỗ trợ ngành nuôi tôm nước này đối phó dịch bệnh virus. Để tạo những đàn tôm bố mẹ tăng trưởng nhanh, kháng bệnh tốt, thích ứng môi trường, Dự án phải qua nhiều công đoạn (sàng lọc từ tự nhiên, kiểm dịch, nhân giống chọn lọc, xây dựng trung tâm giống hạt nhân…) rồi mới sản xuất hàng loạt. Từ thành công này, một số lượng lớn tôm giống chất lượng tốt được đưa đến các bang Andhra Pradesh, Orissa, Guiarat. Dự án cũng thành công trong việc đạt tiêu chuẩn an toàn sinh học cho sản xuất tôm sạch bệnh, thành công kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, xây dựng được cơ sở dữ liệu kỹ thuật số, tạo thuận lợi cho phân tích sự đa dạng di truyền, cũng như để tránh giao phối cận huyết. Hiện, Ấn Độ đã phát triển thành công tôm sú sạch bệnh thế hệ 6 và tiếp tục sản xuất thử. Còn đối với TTCT, sau khi được phép nuôi loài tôm này, Ấn Độ đã nghiên cứu và sản xuất thành công TTCT bố mẹ sạch bệnh do Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản Rajiv Gandhi (RGCA) ở Tamil Nadu thực hiện. Đến nay, Ấn Độ gần như đã chủ động được nguồn tôm giống chất lượng cao và đẩy mạnh nuôi và xuất khẩu loài tôm này.

 

Gia hóa tôm tại Việt Nam

Mỗi năm, nước ta phải nhập khẩu hàng vạn cặp tôm bố mẹ, giá mỗi cặp 20 – 60 USD, chất lượng gần như không kiểm tra được. Theo Tổng cục Thủy sản, chỉ từ tháng 12/2012 đến 13/3/2013, các doanh nghiệp đã nhập về 204.840 con TTCT bố mẹ. Nhập từ nhiều nguồn (Mỹ, Indonesia, Thái Lan, Ecuador…), với nhiều mục đích (sản xuất tôm giống, nuôi thử nghiệm, nuôi tôm giống…). Điều này cho thấy nhu cầu tôm bố mẹ của Việt Nam là rất lớn.

Ông Nguyễn Phước Hà, Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư Đông Bắc, một doanh nghiệp nuôi tôm thương phẩm nói: Nếu Việt Nam gia hóa được tôm bố mẹ thì quá tốt. Tuy nhiên, theo ông, việc này không đơn giản, vì ngoài kinh phí còn đòi hỏi nhân lực chuyên nghiệp, cơ sở vật chất đảm bảo; nhất là phải có những chương trình nghiên cứu nghiêm túc, để kiểm tra, kiểm soát chất lượng.

Việt Nam đang cần lượng lớn tôm bố mẹ có chất lượng  – Nguồn: Redorbi

Ông Trình Trung Phi, Giám đốc Trung tâm Quốc gia Giống hải sản Nam bộ (Viện Nghiên cứu NTTS 2) cho biết: Trong gia hóa tôm, tùy vào từng đối tượng mà mức độ khó khăn khác nhau. Sản xuất tôm bố mẹ nhân tạo một số loài tôm kinh tế trong điều kiện nuôi nhốt đã được tiến hành từ những năm giữa thập niên 70 của thế kỷ trước. Những nghiên cứu này đã mang lại thành công trong việc khép kín vòng đời hai loài tôm thẻ, gồm TTCT (Liptopenaeus vannamei) và tôm thẻ thân xanh (Liptopenaeus stylirostris) trong thập niên 80. Đến nay, tôm bố mẹ và tôm giống nhân tạo dòng TTCT sạch bệnh và kháng bệnh đã được thương mại hóa rộng rãi và xóa bỏ hoàn toàn việc sử dụng tôm bố mẹ tự nhiên. Khác với tôm thẻ, do những hạn chế về mặt sinh học nên quá trình nghiên cứu gia hoá, khép kín vòng đời tôm sú dù đã thành công từ lâu nhưng chất lượng tôm bố mẹ không ổn định, hiệu quả sinh sản thấp nên vẫn chưa thương mại hóa được nguồn tôm bố mẹ nhân tạo. Đến thời điểm hiện nay chỉ có một vài nơi trên thế giới được ghi nhận thành công đối với loài này như Công ty Moana (Bỉ), CSIRO (Úc) và Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể thương mại hóa thì đòi hỏi chúng ta phải có một chương trình chọn giống nghiêm túc và liên tục qua nhiều thế hệ.

Về vấn đề hợp tác gia hóa tôm bố mẹ giữa doanh nghiệp trong nước và đối tác nước ngoài, ông Nguyễn Công Cẩn, Phó Giám đốc Kỹ thuật Công ty TNHH Việt – Úc cho biết: SCIRO đã thành công trong việc gia hóa tôm sú, có đội ngũ khoa học chuyên môn cao, trang thiết bị hiện đại, Công ty Việt – Úc có kinh nghiệm sản xuất TTCT nên khi hợp tác công việc tiến triển rất tốt.

 

Chất lượng là then chốt

Hiện, hầu hết các công ty trên thế giới đều chọn lọc theo hướng tăng trưởng, chưa chú trọng hướng kháng bệnh, khiến chất lượng tôm giống chưa đảm bảo, tôm càng lớn càng dễ mắc bệnh. Theo ông Phi, cần phát triển hài hòa hai vấn đề này.   

Về chất lượng tôm gia hóa, TS Trương Trọng Nghĩa, Viện Nghiên cứu NTTS 1 (Viện 1) cho biết: Viện 1 đã hợp tác với Công ty Moana Ninh Thuận (MNT) gia hóa tôm sú bố mẹ sạch bệnh ở mức sản xuất thương mại tại Trung tâm (ở Ninh Thuận) thực nghiệm sản xuất tôm sú bố mẹ sạch bệnh. Tôm sú bố mẹ được bắt từ nhiều vùng biển trên thế giới, với số lượng đủ để tránh hiện tượng giao phối cận huyết và bảo đảm tính đa dạng di truyền. Đàn tôm này được mang về trại thí nghiệm ở Hawaii để nuôi cách ly và xét nghiệm bệnh. Nếu tôm không có mầm bệnh thì được tiến hành cho lai tạo ra các dòng (gia đình) sạch bệnh, tăng trưởng nhanh. Những dòng này sẽ được kiểm tra lại và bằng cách nuôi đến cỡ thành thục tại bể trong nhà kính ở Hawaii và ao ngoài trời tại một số nước có nuôi tôm sú. Kết quả tôm nuôi bể và ao sẽ được đối chiếu nhau, dòng nào có đặc điểm bền vững về sạch bệnh và tăng trưởng nhanh sẽ được giữ lại để sản xuất tôm bố mẹ. Mỗi dòng đều có mã số phả hệ để truy xuất nguồn gốc khi cần.

Viện Nghiên cứu NTTS 2 đã nhập rất nhiều nguồn tôm bố mẹ tự nhiên từ các vùng sinh thái khác nhau trên hai vùng biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Sau quá trình sàng lọc sẽ bắt đầu chương trình lai tổ hợp để tạo ra tối thiểu 125 gia đình và tiến hành đánh giá các gia đình này để chọn ra các nguồn vật liệu ban đầu cho chọn giống (chủ yếu theo phương pháp chọn giống di truyền số lượng). Ngoài ra, Viện cũng sử dụng một số công cụ sinh học phân tử để đánh giá tính đa dạng của nguồn vật liệu cũng như khả năng cận huyết để làm cơ sở cho quá trình chọn giống. Với phương pháp hiện nay, sau khi nuôi riêng rẽ các gia đình đến kích cỡ 2 gram/con, đánh dấu theo từng gia đình sau đó thả nuôi trong các điều kiện khác nhau (trong nhà và ngoài ao nuôi) để đánh giá các gia đình và sau đó tiến hành chọn lọc các gia đình tốt đưa vào sản xuất thương mại. Tuy nhiên, các dòng thương mại này sẽ bị khóa di truyền để không thể thành quần đàn tôm bố mẹ trong các thế hệ tiếp theo nhằm hạn chế các tổn thất cho người nuôi khi đưa các đàn tôm giống cận huyết hay không có tốc độ tăng trưởng cao vào sử dụng, ông Phi cho biết thêm.

Ngoài ra, một số phương pháp chọn giống hiện đại có thể sử dụng các công cụ phân tử để đánh giá các gia đình tôm có các đoạn gen tốt cho tính trạng mong muốn trong một gian rất ngắn mà không qua quá trình đánh giá thực nghiệm. Tuy nhiên, đây là hướng đi còn rất mới mẻ so với Việt Nam và một số nước trong khu vực và đòi hỏi chúng ta phải có nguồn nhân lực tốt cũng như trang thiết bị hiện đại.

Cũng theo ông Nghĩa, việc chủ động sản xuất tôm sú giống (hậu ấu trùng) qui mô lớn từ tôm bố mẹ gia hóa, sạch bệnh và tăng trưởng nhanh là một nhân tố nhằm ổn định nghề nuôi tôm. Vấn đề này đã được Tổng cục Thủy sản chỉ đạo về chính sách, qui chế phối hợp nghiên cứu thực nghiệm và sản xuất giữa Viện Nghiên cứu NTTS 1, Công ty MNT và chính quyền địa phương. Trung tâm cũng hợp tác với một số công ty lớn có trại sản xuất tôm sú giống theo quy trình an toàn sinh học, bằng cách cung cấp tôm bố mẹ sạch bệnh, để sản xuất hậu ấu trùng cho ao nuôi thịt, kết quả bước đầu khả quan. Để ổn định chất lượng tôm bố mẹ và tôm giống sạch bệnh, cần sự tuân thủ quy trình an toàn sinh học của các cơ sở sản xuất và sự kiểm tra chặt chẽ của các cấp quản lý.

Về lâu dài, cần phải xây dựng quy chuẩn đánh giá chất lượng tôm gia hóa (sức sinh sản, tỷ lệ thành thục…). Sau đó đem tôm giống từ tôm bố mẹ gia hóa đi nuôi và đánh giá, khi có quy chuẩn rồi, cần có những đơn vị khảo nghiệm, kiểm nghiệm, chứng nhận, ông Phi cho biết thêm.

>> Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết: “Tổng cục được Bộ NN&PTNT giao xây dựng chương trình phát triển tôm bố mẹ tôm chân trắng, khuyến khích các doanh nghiệp giống thủy sản hợp tác triển khai. Doanh nghiệp phát triển tôm bố mẹ, Tổng cục sẽ hỗ trợ pháp lý, giám sát, kiểm tra từ đầu, để khi có kết quả tốt thì được cơ quan có thẩm quyền công nhận ngay”.

Quốc Minh

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

error: Content is protected !!