(TSVN) – Hội nghị Nâng cao hiệu quả của tổ chức quản lý cảng cá đã cho biết, sản lượng hải sản khai thác thông qua cảng rất thấp, còn xa mới đạt yêu cầu. Đây là một vấn đề phải khắc phục để gỡ “thẻ vàng” trước mắt cũng như phát triển ngành thủy sản lâu dài.
Sản lượng hải sản qua cảng cá dưới 25%
Hội nghị do Cục Thủy sản và Kiểm ngư phối hợp với Hội Thủy sản Việt Nam tổ chức ngày 25/4/2025. Báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết: Tính đến ngày 18/4/2025, cả nước có 82.333 tàu cá. Trong đó, tàu dài từ 6 – 12 m là 39.330 chiếc, từ 12 – 15m là 14.404 chiếc, từ 15 – 24m là 26.095 chiếc và trên 24m 2.453 chiếc. Tổng sản lượng hải sản khai thác trung bình một năm là 3,6 triệu tấn.
Về cảng cá, quy hoạch đến năm 2030 cả nước có 173 cảng, gồm 39 cảng loại I, 80 cảng loại II và 54 cảng cá loại III; đảm bảo sản lượng hải sản qua cảng 2,98 triệu tấn. Trong đó, nhiều cảng cá đã được đầu tư xây dựng, mở rộng, nâng cấp.
Hiện cả nước có 76 cảng cá được công bố, gồm 3 cảng loại l; 56 cảng loại II; 17 cảng loại 3. Những cảng này, theo quy hoạch, đảm bảo sản lượng hải sản qua cảng một năm là 1.858 triệu tấn, thế nhưng thực tế năm 2024 chỉ có 462.000 tấn qua cảng, đạt gần 25%. Nếu so với tổng sản lượng khai thác thì còn thấp hơn nữa.
Sản lượng hải sản qua cảng cá đạt rất thấp, chủ yếu do các cảng được đầu tư còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa hiện đại. Bên cạnh, ý thức chấp hành của chủ tàu chưa cao, công tác quản lý vẫn bị buông lỏng và việc xử lý vi phạm chưa nghiêm.
Về vấn đề truy xuất nguồn gốc hải sản tại cảng cá. Trong 3 năm qua, giấy xác nhận nguyên liệu thủy sản (SC) được cấp tăng liên tục nhưng sản lượng lại giảm liên tục. Cụ thể: Năm 2022 cấp 2.592 giấy SC với khối lượng 76.605 tấn; Năm 2023 cấp 2.801 giấy SC (tăng 8% so năm 2022) với khối lượng 65.821 tấn (giảm 14% so năm 2023); Năm 2024 cấp 2.880 giấy SC (tăng 3% so năm 2023) với khối lượng 48.856 tấn (giảm 26% so năm 2023). Còn trong 4 tháng đầu năm 2025 mới cấp 497 giấy SC với khối lượng chỉ 7.742 tấn.
Quản lý tàu cá và hải sản khai thác
Tăng cường quản lý cảng cá có mục tiêu chính nhằm quản lý đội tàu và sản lượng khai thác để bảo vệ nguồn lợi hải sản, xây dựng nghề cá hiện đại phát triển lâu dài. Thực tế chưa đạt yêu cầu. Khắc phục hạn chế này còn là nhiệm vụ cấp bách trước mắt để gỡ “thẻ vàng” của EC. Đoàn thanh tra EC lần thứ 5 về chống khai thác IUU, dự tính sang nước ta làm việc vào cuối tháng 3 nhưng nay dời sang tháng 9/2025. Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, đây là cơ hội vàng để gỡ “thẻ vàng”, nếu để kéo dài thêm thì sẽ rất khó khăn.
Nguyên do EC rút “thẻ vàng” với hải sản khai thác của Việt Nam từ cuối năm 2017 vì khai thác IUU (khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định, trái với các biện pháp bảo tồn và quản lý phổ biến trên thế giới). Cũng từ đó, nghề khai thác hải sản nước ta đã có nhiều thay đổi, thoát dần sự tự phát, bất hợp pháp để phát triển bền vững. Chuyển biến dễ thấy, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hầu hết tàu cá đã được quản lý, khắc phục tình trạng vi phạm vùng biển nước ngoài, giai đoạn 2015 – 2020 hàng năm có trên 120 tàu vi phạm, nhưng từ năm 2021 đến nay đã giảm hẳn, nhất là chấm dứt việc đánh bắt bất hợp pháp tại các quốc đảo Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, đến nay “thẻ vàng” vẫn chưa được gỡ, gây khó khăn nhiều mặt cho hải sản Việt Nam khi vào thị trường EU. Vấn đề lớn nhất hiện nay là chưa đạt 100% tàu cá có giấy phép khai thác và được giám sát hoạt động, chưa kiểm soát đầy đủ sản lượng khai thác, nên chưa hoàn toàn đảm bảo truy xuất nguồn gốc, minh bạch chuỗi sản phẩm.
Hiện nay, các địa phương tập trung xử lý tàu cá “3 không”, tàu chưa lắp thiết bị giám sát hành trình, thực hiện tốt việc kiểm soát hải sản, kể cả hải sản nhập khẩu bằng container. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành một Chỉ thị mới nhằm củng cố thêm cơ sở pháp lý và tạo sức mạnh tổng hợp để Việt Nam làm việc với Đoàn thanh tra EC đạt kết quả thực chất, bền vững.
Sáu Nghệ
ảnh 040725a3. Hiện sản lượng hải sản qua cảng cá đạt rất thấp, chủ yếu do các cảng được đầu tư còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa hiện đại. Bên cạnh, ý thức chấp hành của chủ tàu chưa cao, công tác quản lý vẫn bị buông lỏng và việc xử lý vi phạm chưa nghiêm