Khuyến nông cộng đồng – chìa khóa thành công

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Trong những năm qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã triển khai nhiều mô hình, dự án thành công, được đánh giá cao. Tuy nhiên, để các mô hình, dự án có thể nhân rộng, bền vững, không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của tổ khuyến nông cộng đồng.

Kết quả khả quan

Năm 2024, các dự án khuyến ngư được Trung tâm Khuyến nông Quốc gia triển khai gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, nhiều dự án thiếu đơn vị cung cấp giống, có dự án không lựa chọn được đơn vị cung cấp phải dừng triển khai thực hiện. Một số chính sách, quy định của Nhà nước và một số tổ chức có sự thay đổi nên nội dung thực hiện cần phải lên kế hoạch, sắp xếp lại cho phù hợp với tình hình mới. Thiếu nguồn nguyên liệu thức ăn công nghiệp, vật tư, hóa chất dẫn tới thay đổi các kế hoạch về tài chính của các dự án… Diễn biến thời tiết bất thường, cơn bão Yagi 2024 đã gây ảnh tới nuôi trồng, chế biến tại một số tỉnh miền Bắc.

Nhiều mô hình thủy sản đem lại hiệu quả được người dân nhân rộng. Ảnh: TTKQN

Tuy nhiên, vượt qua những thách thức đó, hoạt động khuyến ngư đã thu về nhiều kết quả khả quan. Trong năm qua, Trung tâm đã phối hợp với các đơn vị thực hiện 12 dự án nuôi thủy sản nước ngọt với quy mô 19,35 ha ao, 400 m² bề và 4.737 m3 lồng nuôi. Các chỉ tiêu kỹ thuật đảm bảo theo quy trình: nuôi cá nheo mỹ, điêu hồng,… trong lồng năng suất đạt 10 – 15 kg/m³; nuôi cá trắm đen năng suất trên 40 kg/m3… hiệu quả kinh tế tăng tối thiểu 15% so với ngoài mô hình; các mô hình liên kết, 100% sản phẩm được ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm; các mô hình đánh giá chứng nhận VietGAP dự kiến được tư vấn, đánh giá và cấp chứng nhận theo quy định; tổ chức đào tạo tập huấn, thông tin tuyên truyền nhân rộng mô hình và sử dụng kinh phí theo quy định và thuyết minh đã được phê duyệt.

Về nuôi thủy sản mặn, lợ, Trung tâm thực hiện 16 dự án với quy mô 63 vạn con giống; diện tích 223,4 ha; 10.000 m² lồng và 1.626 m³ lồng. Kết quả, dự án cá nâu đạt năng suất trên 3,6 tấn/ha; năng suất nuôi cá lồng 10 – 15 kg/m³; năng suất nuôi tôm thẻ thâm canh trên 12 tấn/ha; tôm sú lúa trên 500 kg/ha,…; hiệu quả kinh tế tăng tối thiểu 15% so với ngoài mô hình; các mô hình liên kết, 100% sản phẩm được ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm; các mô hình đánh giá hữu cơ, VietGAP đảm bảo được thực hiện theo quy định; tổ chức đào tạo tập huấn, thông tin tuyên truyền nhân rộng mô hình và sử dụng kinh phí theo quy định và thuyết minh đã được phê duyệt.

Ở lĩnh vực khai thác, 4 dự án được thực hiện (3 dự án khai thác với 50 tàu và 1 dự án chế biến và bảo quản sản phẩm). Các dự án đảm bảo thực hiện đầy đủ các nội dung, giảm tổn thất sau thu hoạch dưới 12%, hiệu suất sử dụng nước đá so với mô hình truyền thống gần 97%, hiệu quả kinh tế tăng hơn 15%.

Ngoài ra, Trung tâm còn thực hiện 2 dự án nghề muối với quy mô 6 ha, các dự án thực hiện đầy đủ nội dung đã được phê duyệt. Sản phẩm muối sạch, năng suất muối tăng ≥10% so với phương pháp sản xuất muối truyền thống. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn TCVN 9638:2013 muối thô (natri clorua), liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị, tiêu thụ trên 90% sản phẩm muối của mô hình; nâng cao năng lực cho THT/HTX.

Điểm nhấn khuyến nông cộng đồng

Góp phần vào hoàn thành mục tiêu, thành công của các mô hình, dự án khuyến nông nói chung, thủy sản nói riêng, không thể không kể đến vai trò của các cán bộ khuyến nông thuộc tổ khuyến nông cộng đồng (KNCĐ).

Sau 2 năm triển khai Đề án thí điểm “Nâng cao hiệu quả hoạt động công tác khuyến nông trên cơ sở kiện toàn mô hình tổ chức khuyến nông cộng đồng”, mô hình tổ KNCĐ đã được thành lập và nhân rộng phát triển tại nhiều địa phương trong cả nước.
Các tổ KNCĐ đã có nhiều hoạt động góp phần tích cực vào việc phát triển nông nghiệp, nông thôn ở các địa phương, nhận được sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành, sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, các doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân.

Toàn quốc đã có 57 tỉnh, thành phố thành lập được gần 5.200 tổ KNCĐ với khoảng 47.290 thành viên tham gia. Thành viên tham gia tổ KNCĐ chủ yếu là lãnh đạo, cán bộ xã, đại diện các hội, đoàn thể ở địa phương, đại diện hợp tác xã, nông dân sản xuất kinh doanh giỏi.
Ông Lê Quốc Thanh – Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức 56 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho các tổ KNCĐ với gần 1.300 học viên tham gia; đào tạo, bồi dưỡng cho khoảng 2.000 cán bộ khuyến nông cộng đồng về các kiến thức, kỹ năng: Kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất, phát triển thị trường, chuyển đổi số…

Các tổ KNCĐ tại 5 vùng nguyên liệu lớn của cả nước đã tư vấn, hỗ trợ cho khoảng 50 hợp tác xã với tổng diện tích gần 10.000 ha trong việc lồng ghép các chương trình, dự án khuyến nông. Từ đó, các hợp tác xã tăng cường phát triển, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào hoạt động sản xuất, giúp liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và xây dựng, phát triển vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt tiêu chuẩn.

Đặc biệt, tổ KNCĐ chính là cầu nối giữa các doanh nghiệp và nông dân, đảm bảo đầu vào và đầu ra cho sản phẩm, giúp người dân chủ động hơn trong vấn đề sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn, có chứng nhận, có định hướng thị trường. Do đó, có thể khẳng định tổ KNCĐ sẽ là lực lượng nòng cốt để tiếp tục chuyển giao những khoa học kỹ thuật mới nhất, đưa đến cung cấp cho người dân những thông tin cập nhật…

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cũng đề nghị, các tổ KNCĐ phải biết lắng nghe nông dân cần những gì, mong muốn những gì. KNCĐ cần chia sẻ với nông dân trong hỗ trợ khoa học kỹ thuật, làm cầu nối liên kết trong sản xuất, mở rộng thị trường.

Qua 2 năm triển khai, KNCĐ đã khẳng định vai trò, nhiệm vụ của hệ thống khuyến nông trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, thể hiện rõ vai trò hỗ trợ cho người nông dân. Đặc biệt, KNCĐ còn góp phần làm thay đổi tư duy, nhận thức, củng cố lại hệ thống khuyến nông trên nguyên tắc không thay đổi bộ máy và biên chế khuyến nông; đổi mới, đa dạng hóa chức năng, hoạt động của khuyến nông cơ sở; thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp, tri thức hóa nông dân, người dân được tham gia liên kết sản xuất theo hợp đồng với các doanh nghiệp để sản xuất theo quy trình, tiêu chuẩn, chất lượng theo yêu cầu thị trường.

“Tổ khuyến nông cộng đồng là cầu nối giữa doanh nghiệp – Nhà nước – nhà khoa học và nông dân trong vấn đề nâng cao giá trị và tiêu thụ nông sản. Tổ khuyến nông cộng đồng – bước đột phá trong công tác khuyến nông. Tổ khuyến nông cộng đồng đã vượt ra khỏi phạm vi đề án và đạt kết quả ngoài mong đợi”, ông Thanh nhận định.

Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, nhìn chung hoạt động của tổ KNCĐ trên nhiều địa phương vẫn tồn tại hạn chế, hoạt động còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất, trình độ các thành viên trong tổ không đồng đều, đa số còn hạn chế về kiến thức, nghiệp vụ… Do đó, cần tập trung lựa chọn những người có kiến thức và kinh nghiệm thực tế về nông nghiệp để thành lập tổ KNCĐ.

Trong điều kiện hoạt động khuyến nông có nguồn kinh phí còn hạn chế thì cần làm tốt công tác xã hội hóa. Các tổ KNCĐ cần mời các doanh nghiệp tham gia và có sự chia sẻ, gắn kết, liên kết chặt với nhau ở các vùng nguyên liệu và địa bàn sản xuất. Hoạt động xã hội hóa mạnh mẽ trong liên kết với doanh nghiệp đầu vào và đầu ra là chìa khóa quan trọng giúp tổ KNCĐ hoạt động hiệu quả.

Vũ Mưa

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!