Mở rộng vùng nuôi đạt chuẩn

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Nuôi tôm đạt chứng nhận, đặc biệt là các chứng nhận quốc tế như ASC và BAP không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao, mà còn đảm bảo phát triển môi trường bền vững.

Tất yếu và cấp thiết

“Chất” và “chuẩn” là hai yếu tố quan trọng đối với từng sản phẩm và mỗi thị trường đều có một yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên, con đường từ “chất” đến “chuẩn” là một hành trình không chỉ đòi hỏi ở sự quyết tâm, kiên trì, mà còn cả sự thay đổi tư duy, nhận thức để chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Bởi chỉ có như vậy mới giúp người nông dân và cả nhà quản lý nhận ra giá trị to lớn của “chất” và “chuẩn”, để từ đó có những điều chỉnh trong thực hành sản xuất tốt, sản phẩm làm ra có chứng nhận đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường tiêu thụ.

Ngay từ xa xưa, ông bà ta đã dùng từ “ngon lành” (chất lượng và an toàn cho sức khỏe – PV) để đánh giá chất lượng của một sản phẩm. Điều này cũng dễ hiểu, bởi con người luôn có nhu cầu ăn ngon nên cái ngon bao giờ cũng được ưa chuộng nhiều hơn, vì thế giá trị cũng cao hơn. Và khi khoa học ngày một tiến bộ, thu nhập cao hơn, người ta cũng bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe, nên cái ngon đó phải được đảm bảo thêm bằng sự an toàn vệ sinh thực phẩm thông qua các tiêu chuẩn, quy chuẩn chung, như: VietGAP, GlobalGAP, ASC, BAP, MSC,…

Đối với con tôm cũng vậy, bên cạnh yếu tố mẫu mã, chất lượng, giá thành, thì việc đạt các chứng nhận quốc tế trên sẽ mở ra cánh cửa rộng hơn để thâm nhập nhiều thị trường khó tính nhưng có sức tiêu thụ lớn, giá trị cao. Đơn cử như thị trường EU (tính cả Vương quốc Anh), mặc dù chúng ta có nhiều lợi thế về: ưu đãi thuế quan (thông qua các hiệp định thương mại tự do), trình độ chế biến sâu đạt chuẩn cao của thế giới, giá tiêu thụ,… nhưng mức độ tăng trưởng ở thị trường này trong những năm gần đây không như mong muốn. Trong đó có nguyên nhân do sản lượng tôm Việt Nam được cấp chứng nhận chưa nhiều.

Thách thức ngày càng lớn

Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta cho rằng, thách thức đối với ngành tôm là rất rõ ràng và đang ở cấp cao nhất so trước đây. Bên cạnh câu chuyện về thuế tại thị trường Mỹ hay cạnh tranh với nguồn tôm giá rẻ các nước thì thách thức lớn nhất là các nước nhập khẩu ngày càng dựng lên nhiều các rào cản kỹ thuật, kiểm tra chặt chẽ hơn, kể cả hậu kiểm trên kệ hàng.

Chỉ riêng với các tổ chức chứng nhận quốc tế, như: BAP, ASC,… ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống kiểm soát của mình, gây bất ngờ, thụ động cho các nhà máy chế biến, vùng nuôi. Đối với vấn đề truy xuất nguồn gốc, theo ông Lực là đòi hỏi chung của tất cả thị trường chứ không riêng gì EU. Trong khi đó, tình hình cấp mã số cơ sở nuôi tôm của chúng ta đang trì trệ, vô hình chung tạo ra một nút thắt gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc chứng minh, thuyết phục khách hàng về khả năng kiểm soát nguyên liệu của mình.

Đối với thị trường lớn như EU, các hệ thống phân phối lớn ở đây yêu cầu kiểm tra chất lượng tôm theo chuỗi giá trị. Trong đó, cơ sở cung ứng tôm giống và thức ăn phải đạt chuẩn như: ASC, BAP, ISO,… Thị trường lớn thứ hai là Nhật Bản hiện vẫn duy trì kiểm tra toàn bộ lô hàng tôm từ Việt Nam với nhiều tiêu chí dư lượng khắt khe.

Mặc dù thị trường Mỹ có dễ tính hơn nhưng lại là điểm đến của nhiều nguồn tôm rẻ trên thế giới, nhất là Ấn Độ, Ecuador và Indonesia khiến việc tiêu thụ tôm Việt Nam vào đây bị hạn chế do phải cạnh tranh về giá.

Còn thị trường Canada lại coi trọng hậu kiểm, tức họ kiểm hàng doanh nghiệp nào đó trên kệ trong siêu thị, nếu không đạt, hàng của doanh nghiệp đó đang lưu hành ở Canada sẽ bị triệu hồi, trả về Việt Nam khiến rủi ro không còn ở từng lô hàng mà là toàn bộ hàng đang tiêu thụ,…

Nỗ lực mở rộng

Ông Lực cho biết: “Giá tôm nguyên liệu trong nước thời gian qua được giữ vững là nhờ trình độ chế biến của các nhà máy, nhưng về lâu dài, vấn đề này sẽ không còn vì các nước hiện cũng đang đầu tư cho chế biến rất nhiều, nên ngành tôm cần có giải pháp khả thi trong việc giảm giá thành sản xuất, tăng thêm tính cạnh tranh”.

Muốn vậy, con tôm Việt Nam trước hết cần phải sạch, có chứng nhận quốc tế và dễ truy xuất nguồn gốc. Để làm được điều này, theo các doanh nghiệp, toàn ngành phải nỗ lực đẩy nhanh hơn các chương trình hành động, mang tính đồng bộ, thiết thực và có tác dụng cụ thể, như: Tuyên truyền, kiểm tra, ngăn chặn các chế phẩm không được sử dụng trong nuôi tôm, nhất là các kháng sinh cấm một cách quyết liệt, triệt để ngay từ bây giờ và duy trì dài hạn; Quy hoạch lại vùng nuôi và đầu tư cơ sở hạ tầng; tổ chức lại sản xuất nuôi tôm quy mô trang trại, hợp tác xã đạt các tiêu chuẩn theo yêu cầu thị trường để sản phẩm có thể tiêu thụ ở các hệ thống lớn, giá tốt, tạo nền tảng đột phá cho chất lượng, uy tín, thương hiệu tôm Việt Nam.

Giải pháp tiếp theo là nên có nhiều dự án kêu gọi đầu tư nuôi tôm; có chính sách tích tụ đất đai để hình thành các trại nuôi quy mô lớn, nhằm đạt điều kiện thực hiện quy trình nuôi thâm canh hoàn chỉnh, giảm thiểu rủi ro, tăng năng suất, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh cho tôm Việt. Khi diện tích nuôi đạt chuẩn ASC lên đến hàng trăm nghìn ha, chắc chắn tôm Việt sẽ chiếm lĩnh phân khúc thị phần tôm cao cấp ở tại các thị trường, góp phần đáng kể cho việc hoàn thành mục tiêu “Nâng tầm tôm Việt“.

Chúng ta đã có những năm tháng “tập dợt” để chuẩn bị cho nông sản bước ra sân chơi lớn qua tiêu chuẩn VietGAP, nhưng khi bắt tay thực hiện những tiêu chuẩn quốc tế cao cấp hơn, như: ASC, BAP, GlobalGAP,… thì kết quả thu được đến nay vẫn còn rất hạn chế.

An Xuyên

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!