(TSVN) – Hiện nay, lĩnh vực nuôi trồng thủy sản (NTTS) nói chung, nuôi tôm nói riêng đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, đồng thời đã và đang có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Song, ngành NTTS vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường. Do đó, rất cần những giải pháp mang tính cấp bách và lâu dài, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Tại Hội nghị “Phát triển ngành hàng tôm ít phát thải và bền vững ở Việt Nam” do Bộ NN&PTNT phối hợp Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức mới đây; các chuyên gia cho rằng, lĩnh vực NTTS chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu nhưng hoạt động này cũng chính là một trong những thủ phạm gây ra biến đổi khí hậu, do phát thải ra môi trường một lượng lớn khí nhà kính. Dẫn chứng cho nhận định trên, theo các chuyên gia, do mong muốn tôm sinh trưởng và phát triển nhanh, người nuôi tôm thường sử dụng các loại thức ăn công nghiệp có chứa hàm lượng protein cao, khiến tôm sẽ thải ra rất nhiều amoniac vào trong nước và đây là một phần nguyên nhân sản sinh ra các chất gây phát thải khí nhà kính.
Cần nhân rộng mô hình nuôi tôm theo hướng giảm phát thải khí nhà kính. Ảnh: ST
Theo PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ, việc nghiên cứu phát thải khí nhà kính từ ao nuôi thủy sản là vấn đề cần quan tâm để có biện pháp giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc.
Kết quả giám sát phát thải khí nhà kính trong ao nuôi tôm do Dự án “Chuyển đổi năng lượng và thích ứng với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL” thực hiện từ các ao nuôi tôm tại huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu cho thấy; mô hình nuôi tôm thâm canh phát thải khí nhà kính gấp 15 lần so với nuôi tôm quảng canh. Trong khi mật độ nuôi, nạo vét ao và vèo nuôi là những yếu tố chính quyết định đến lượng khí nhà kính phát thải từ các ao nuôi tôm quảng canh, thì trong mô hình nuôi tôm thâm canh, điện và thức ăn là hai nguồn phát thải chính. Trong đó, lượng điện tiêu thụ đóng góp 82% và thức ăn là 17% vào tổng lượng khí nhà kính phát thải.
Liên quan đến nguồn phát thải góp phần làm tăng hiệu ứng nhà kính, ông Ngô Tiến Chương, cán bộ cao cấp của Tổ chức GIZ cho rằng, nước thải, phân, bùn thải chứa các loại hóa chất, thuốc kháng sinh… tích tụ và tồn lưu trong môi trường chính là những nguồn phát thải góp phần làm tăng hiệu ứng nhà kính (phát thải khí CO2, SO2, PO4) và làm gia tăng tác động của biến đổi khí hậu.
Còn theo PGS.TS Võ Nam Sơn, Trường Đại học Cần Thơ, trong chuỗi giá trị ngành hàng tôm, có khá nhiều công đoạn gây phát thải khí nhà kính. Ông Sơn chỉ rõ: “Đơn cử như ở khâu nuôi tôm, từ các dạng năng lượng, như: xăng, dầu, điện, cho đến các loại vật tư đầu vào phục vụ quá trình nuôi, như: vôi, phân bón, thức ăn, chế phẩm sinh học… đều gây ra phát thải. Tương tự ở khâu chế biến tôm, ngoài các dạng năng lượng trên, còn có khí NH3 hay các dung dịch làm lạnh khác…”.
Đối với khâu nuôi, ông Sơn cho biết, lượng phát thải khí nhà kính có sự khác nhau trong từng mô hình. Theo đó, lượng phát thải khí nhà kính mà nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ đo được (kg CO /kg tôm tươi) đối với 2 mô hình nuôi thâm canh là 9,3; nuôi siêu thâm canh là 11,7; nuôi siêu thâm canh theo ASC là 12,5. Riêng lượng phát thải ở các mô hình nuôi tôm theo hướng “xanh”, như: tôm rừng chỉ có 0,8; tôm rừng hữu cơ chỉ 0,3; quảng canh cải tiến chỉ 0,7;lúa-tôm chỉ 1,3 – tức tiệm cận mức “Net- Zero” như kỳ vọng.
Ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bạc Liêu nhận định, để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, trong những năm gần đây, nhiều diện tích nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh được mở rộng, trong khi mô hình mẫu về nuôi tôm bền vững, ít phát thải lại quá ít, đã đưa đến những tác động tiêu cực cho môi trường.
Để giảm phát thải nhà kính từ NTTS, PGS. TS Lê Anh Tuấn, đại diện nhóm nguyên cứu của Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ cho rằng, cần chuyển đổi sử dụng năng lượng tái tạo trong NTTS (biogas, điện mặt trời); quản lý tốt cách cho ăn và quản lý sử dụng thức ăn nhằm giảm thiểu hệ số thức ăn; sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm và áp dụng mô hình nuôi tôm hai giai đoạn trong đó tập trung vào giai đoạn vèo. Ngoài ra, việc đo lượng khí nhà kính, phát thải từ ao nuôi tôm, từ đó xác định được các nguồn phát thải chính và đưa ra những biện pháp can thiệp phù hợp, giúp giảm lượng khí nhà kính phát thải trong quá trình NTTS là cần thiết và cần được nhân rộng trong thời gian sắp tới.
Thực tế, sau 9 tháng thực hiện tại huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, áp dụng kết hợp các biện pháp giảm lượng điện tiêu thụ, thay thế điện từ năng lượng hóa thạch bằng tái tạo; xử lý chất thải của tôm bằng ủ khí sinh học; tối ưu hóa lượng thức ăn cho tôm và thay đổi cách thức cho ăn (đối với mô hình nuôi tôm thâm canh) và thay đổi mật độ thả tôm; cải thiện hệ thống xử lý nước để tránh dịch bệnh cho tôm giúp giảm tỷ lệ tôm chết (đối với mô hình nuôi tôm quảng canh)… cho thấy, lượng khí nhà kính phát thải từ các ao nuôi tôm đã giảm 16,9% đối với mô hình nuôi tôm quảng canh, và giảm 10,8% đối với mô hình nuôi tôm thâm canh. Ngoài ra, theo ông Chương, phát triển mô hình tôm – lúa theo hướng hữu cơ, truy xuất dấu chân carbon trong chuỗi giá trị tôm và chuỗi giá trị lúa gạo đã chứng minh hiệu quả giảm phát thải khí nhà kính gần chạm đến ngưỡng “Net Zero”…
Xuân Trường
ÔNG LÊ MINH HOAN, BỘ TRƯỞNG BỘ NN&PTNT
Cần chuyển hóa quy chuẩn, tiêu chuẩn để cập nhật về mặt công nghệ trong NTTS, từ đó áp dụng giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Bộ NN&PTNT sẽ cùng Cục Thủy sản phác thảo ý tưởng về mặt quy hoạch vùng nuôi bền vững, cùng ngồi với doanh nghiệp, địa phương, HTX để bàn bạc với nhau. Bên cạnh đó, sớm thành lập hiệp hội ngành hàng tôm không chỉ có mỗi doanh nghiệp, mà còn có địa phương, HTX, các nhà khoa học cùng tham gia. Tất cả phải có trách nhiệm với môi trường, với người tiêu dùng để xây dựng hình ảnh ngành tôm “sạch, trách nhiệm, bền vững”.
ÔNG TRẦN ĐÌNH LUÂN, CỤC TRƯỞNG CỤC THỦY SẢN
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đặc biệt là ô nhiễm môi trường hiện nay, mô hình nuôi tôm tuần hoàn, không xả thải giúp người nuôi sử dụng những vi sinh bản địa chất lượng. Sử dụng vi sinh để giải quyết vấn đề môi trường cho ngành nuôi tôm công nghiệp hiện nay, giảm dùng hóa chất, kháng sinh, tăng giá trị ngành tôm. Xây dựng thương hiệu tôm chất lượng, giá trị kinh tế cao, đảm bảo công tác bảo vệ môi trường và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, góp phần nâng cao giá trị xuất khẩu.
ÔNG NGUYỄN TRUNG HIẾU, PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ NN&PTNT TỈNH BẠC LIÊU
Với diện tích nuôi tôm và sản lượng tôm thu hoạch hàng năm lớn nhất nhì cả nước, Bạc Liêu đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm của Việt Nam. Trong những năm gần đây việc nhanh chóng mở rộng diện tích nuôi tôm ở quy mô thâm canh, siêu thâm canh để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu đã gây ra những tác động tiêu cực tới môi trường. Trong khi đó, chúng ta chưa có nhiều mô hình mẫu về nuôi tôm bền vững, ít phát thải. Cần chú trọng việc đo lượng khí nhà kính phát thải từ ao nuôi tôm, từ đó xác định được các nguồn phát thải chính và đưa ra những biện pháp can thiệp phù hợp, giúp giảm lượng khí nhà kính phát thải trong quá trình NTTS là một mô hình hay của dự án và cần được nhân rộng trong thời gian sắp tới.
TS NGUYỄN THANH TÙNG, VIỆN TRƯỞNG VIỆN NGHIÊN CỨU
Về lâu dài việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất tôm nhằm bảo vệ môi trường nuôi là yêu cầu quan trọng; ngoài ra để giảm bớt rủi ro cần mở các chương trình đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật kịp thời cho người nuôi tôm. Còn trước mắt, cần tăng cường hơn nữa công tác quan trắc, cảnh báo, giám sát môi trường ở các tuyến kênh trọng điểm, kênh đầu nguồn. Xây dựng cơ sở hạ tầng cấp thoát nước và nạo vét phù hợp với hoạt động nuôi tôm. Quy hoạch vùng nuôi tôm theo cấp độ thâm canh phù hợp trên nguyên tắc an toàn sinh học, chất lượng nước, đảm bảo cấp, thoát nước riêng biệt.
PGS.TS VÕ NAM SƠN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Hướng tới thực thi cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại COP26 là đưa phát thải về “Net Zero” vào năm 2050, ngành hàng tôm cần phải chuyển đổi sang mô hình sản xuất kinh tế tuần hoàn, tái sử dụng tất cả các nguồn thải cho một quy trình sản xuất khác. Theo đó, khuyến cáo các nông hộ, trang trại nuôi tôm nên chuyển đổi theo hướng tuần hoàn khép kín, nuôi đa loài trong một ao, trang trại sản xuất kết hợp (tôm + đối tượng nuôi khác). Sử dụng các đầu vào “xanh” như: dùng điện mặt trời hoặc sử dụng năng lượng xanh, ngừng sử dụng phân bón hóa chất, nuôi thêm các loài hấp thu hữu cơ (chất lơ lửng), nuôi kèm các loài hấp thu vô cơ...
An Xuyên - Ngọc Hân