(TSVN) – Bột mysid, một loại giáp xác nhỏ họ Mysidae, giống tôm, chủ yếu phân bố ven biển Bắc Cực và các vùng ôn đới, có thể thay thế 65,5% bột cá và kích thích tăng trưởng của tôm thẻ.
Hiện, tiềm năng của nhiều loài giáp xác phù du, gồm mysid vẫn chưa được khai thác. Mysid có giá trị năng lượng cao và được coi là sinh vật thí nghiệm xuất sắc cho các thử nghiệm sinh học nhờ nguồn lợi dồi dào và chu kỳ sinh sản ngắn. Các loài mysid hiện nay chưa được tận dụng đúng mức, trong khi việc sử dụng chúng làm thức ăn có thể đóng vai trò quan trọng đối với ngành nuôi trồng thủy sản.
Mysid nổi bật với hàm lượng protein cao (52 – 75%), cùng lượng lớn lipid và axit béo, có tiềm năng trở thành nguồn thức ăn sống trong nuôi trồng thủy sản. Mặc dù chưa có nhiều nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng và thử nghiệm mysid thay thế bột cá trong khẩu phần ăn của tôm, mysid vẫn được coi là một loại thức ăn sống tiềm năng trong nuôi cá biển và tôm thẻ.
Nghiên cứu về mysid được thực hiện trong hệ thống tuần hoàn RAS tại Khu phức hợp Nuôi thủy sản đa loài của Đại học Philippines Visayas (UP Visayas). Hệ thống thí nghiệm bao gồm hai mươi bể nhựa 60 lít, được bố trí theo thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên trong 60 ngày.
Mysid tự nhiên được thu mua từ ngư dân địa phương tại Atabayan, Tigbauan, Iloilo, Philippines, và chế biến thành bột để bổ sung vào các khẩu phần ăn thử nghiệm. Xây dựng năm khẩu phần ăn thử nghiệm (37% protein thô) đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của ấu trùng tôm thẻ, gồm nghiệm thức đối chứng không bổ sung mysid (MM0); và 4 nghiệm thức thay thế bột cá bằng bột mysid theo tỷ lệ lần lượt 25% (MM25), 50% (MM50), 75% (MM75), và 100% (MM100).
Philippines là quốc gia đầu tiên nghiên cứu về dinh dưỡng của bột mysid (MM) như một protein chất lượng trong khẩu phần ăn của tôm thẻ. Phân tích cho thấy, thành phần axit amin (AA) của bột mysid hoàn chỉnh và cân bằng với giá trị dinh dưỡng tương tự hoặc vượt trội hơn so với thành phần axit amin trong protein cơ của tôm thẻ. Ngoài ra, axit amin thiết yếu (EAA) của bột mysid đáp ứng nhu cầu lý tưởng về EAA trong chế độ ăn của tôm. Hầu hết các axit amin thiết yếu trong bột mysid có chỉ số hóa học cao, xấp xỉ, thậm chí vượt 100%, cho thấy các axit amin này trong bột mysid đủ đáp ứng yêu cầu EAA của tôm thẻ để đạt tăng trưởng và phát triển tối ưu.
Dựa trên chỉ số điểm hóa học (CSI), axit amin hạn chế nhất trong bột mysid là leucine (38,33%), tiếp theo là arginine (39,58%). Điều này có nghĩa, bột mysid chỉ cung cấp được hàm lượng này trong tổng lượng axit amin cần thiết cho tôm thẻ, phần còn lại cần phải bổ sung vào khẩu phần ăn. Việc bổ sung leucine, dù là tự nhiên hay tổng hợp, vào khẩu phần ăn sẽ đảm bảo sự phát triển tối ưu và không bị giới hạn bởi sự thiếu hụt axit amin thiết yếu này. Nhìn chung, bột mysid là protein chất lượng tốt và có thể cung cấp lượng EAA đầy đủ để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ nhằm đạt tăng trưởng tối ưu.
Chỉ số hiệu suất tăng trưởng của trọng lượng thân cuối (FBW), tăng trọng (WG), và tốc độ tăng trưởng riêng (SGR), thông số hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ biến đổi thức ăn (FCR), hiệu quả sử dụng protein (PER), và tỷ lệ sống của tôm thẻ được cho ăn khẩu phần bổ sung bột mysid tương tự tất cả các nhóm tôm khác vào cuối thử nghiệm. Tôm được cho ăn khẩu phần thay thế hoàn toàn bột cá (MM100) đạt hiệu suất tăng trưởng tương đương nhóm đối chứng 100% bột cá (MM0). Tuy nhiên, nhóm tôm được tăng cường hàm lượng bột mysid ở nghiệm thức MM25, MM50 và MM75 có xu hướng tương tự nhóm tôm MM100 về tốc độ tăng trưởng và khả năng sử dụng thức ăn. Những kết quả này khẳng định bột mysid có thể thay thế 100% bột cá mà không ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất sinh học của tôm thẻ.
Phân tích thành phần thân thịt của tôm thẻ cho thấy, hàm lượng protein, lipid, độ ẩm và tro không bị ảnh hưởng khi thay thế bột cá bằng bột mysid. Kết quả này chứng minh bột mysid cung cấp dinh dưỡng cân bằng cho tôm thẻ, từ đó thúc đẩy tăng trưởng mà không ảnh hưởng đến thành phần cơ thịt. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, hàm lượng thay thế bột mysid đã ảnh hưởng đáng kể đến lưu giữ protein (PR) và chất béo trong thân thịt. Khả năng lưu giữ chất béo và protein của nhóm tôm được cho ăn bổ sung bột mysid cao hơn đáng kể nhóm tôm đối chứng ăn 100% bột cá. Khả năng lưu giữ protein và chất béo của nhóm tôm MM75 cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng của vật nuôi.
Trong nghiên cứu này, các giá trị PR dao động 18,68 – 22,70, tương đối cao so với các giá trị được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu trước đây, góp phần cải thiện thành phần AA trong bột mysid và khả năng tổng hợp protein. Tỷ lệ sống tương đối cao và không có sự khác biệt đáng kể giữa các chế độ ăn thử nghiệm cho thấy toàn bộ tôm thử nghiệm đều khỏe mạnh và có tình trạng dinh dưỡng tốt. Điều này cho thấy bột mysid là thành phần dinh dưỡng phù hợp để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng. Sự cải thiện đáng kể về tăng trưởng của tôm thẻ có thể được lý giải bởi thành phần dinh dưỡng chất lượng cao của bột mysid, với hàm lượng protein thô cao tương đương bột cá cùng thành phần axit amin (AA) hoàn chỉnh.
Bột mysid cũng là thành phần dinh dưỡng đầu tiên có khả năng thay thế hoàn toàn bột cá để hỗ trợ sự tăng trưởng và phát triển của tôm thẻ. Kết quả cho thấy bột mysid có thể là một lựa chọn thay thế khả thi cho bột cá trong khẩu phần ăn của tôm thẻ, đồng thời giúp giảm áp lực khai thác nguồn cá tự nhiên đang suy giảm.
Nghiên cứu này đã chứng minh bột mysid có thể thay thế hoàn toàn bột cá trong các khẩu phần ăn chứa 40% bột cá mà không ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ sống, hiệu suất tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn, thành phần sinh hóa và khả năng lưu giữ chất dinh dưỡng của tôm. Chế độ ăn bổ sung bột mysid cũng thúc đẩy tăng trưởng của ấu trùng tôm thẻ nếu được sử dụng ở tỷ lệ thay thế 65,6% bột cá.
Dũng Nguyên
Theo GlobalSeafood