(TSVN) – Năm 2024 tiếp tục chứng kiến khả năng vượt khó, vươn lên của ngành tôm, để về đích bằng kết quả tăng trưởng ấn tượng cả về sản lượng lẫn giá trị kim ngạch xuất khẩu. Bước sang năm 2025, ngành tôm cần nắm bắt, chắt chiu tốt từng cơ hội để tiếp tục khẳng định vị thế của mình trên thị trường thế giới.
Có thể nói, hầu như năm nào, ngành tôm cũng gặp khó và năm 2024 cũng không là ngoại lệ. Đánh giá về vụ tôm năm 2024, ông Hồ Quốc Lực – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta chỉ gói gọn trong 4 chữ: “Thuận ít, khó nhiều”. Đó cũng là lý do vì sao, dù đã về đích thành công ở cả 2 chỉ tiêu cơ bản là sản lượng tôm nuôi và kim ngạch xuất khẩu nhưng vẫn có rất ít doanh nghiệp và người nuôi tôm được tận hưởng niềm vui từ thành quả này.
“Năm nay, dù kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng tốt và sản lượng tôm nuôi cũng không tệ, nhưng lợi nhuận thì không như kỳ vọng, thậm chí một số doanh nghiệp và người nuôi còn bị thua lỗ. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu là do giá tôm giảm mạnh kéo dài, dịch bệnh làm tôm chậm lớn và gần cuối năm là tình trạng thiếu tôm nguyên liệu”, ông Lực cho hay.
Khó khăn của ngành tôm trong năm qua có đủ cả yếu tố đến từ chủ quan lẫn khách quan và sự tương tác giữa các khó khăn này khiến thách thức càng lớn, vị thế con tôm có phần bị giảm sút. Chính từ những khó khăn, thách thức trên cùng với dịch bệnh bùng phát sớm ngay từ đầu năm khiến cỡ tôm thu hoạch không như ý, người nuôi thua lỗ, không dám thả nuôi vụ tiếp theo. Hậu quả là tôm nguyên liệu bị thiếu hụt trầm trọng dịp cuối năm, buộc doanh nghiệp phải đẩy giá thu mua lên cao, chấp nhận phá huề, thậm chí là cắt lỗ để có đủ nguồn hàng trả hợp đồng đúng hạn.
Trong bối cảnh khó khăn trên, ngành tôm cũng tìm thấy cơ hội của mình từ giữa quý III, khi đồng Yên của Nhật phục hồi mạnh mẽ dẫn tới sức mua cải thiện. Cơ hội tiếp theo là việc các hệ thống phân phối lớn trên thế giới tìm về nguồn cung từ tôm Việt, dù giá cao hơn nhưng an toàn hơn; khiến đơn hàng tôm ta tăng khá tốt. Cũng cần nói thêm đối chút may mắn ở vụ nuôi đầu năm là điều kiện thời tiết tương đối thuận, tôm lớn nhanh, nuôi được về cỡ lớn nhiều, dù giá tôm thời điểm này là không cao. Tất cả những cơ hội trên đều được doanh nghiệp nắm bắt khá tốt, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu năm 2024 tăng hai con số so năm 2023.
Truy xuất nguồn gốc, an toàn vệ sinh thực phẩm, phúc lợi động vật, rồi sản xuất xanh… đều là những quy định, tiêu chuẩn từ các thị trường nhập khẩu lớn mà con tôm phải đạt được nếu muốn giữ vững vị thế tại các thị trường trọng điểm. Trong khi đó, nghề nuôi tôm ở Việt Nam hiện chủ yếu vẫn còn ở quy mô nhỏ lẻ nên sẽ rất khó thực hiện theo các quy định, tiêu chuẩn này. Đây là một tồn đọng lớn, một khó khăn lớn, nên rất cần có các trại nuôi lớn hàng trăm hecta, như tình hình nuôi ở Ecuador. Hay như giải pháp dồn điền, đổi thửa; tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chuỗi giá trị; đồng thời có chính sách thu hút nhà đầu tư tham gia nhiều hơn lĩnh vực nuôi tôm.
Một vấn đề nan giải và cũng có thể xem là lực cản sự phát triển của ngành tôm đó là giá thành tôm nuôi. Đã có rất nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề về vấn đề này, nhưng thực tế cho đến hiện tại, giá thành tôm nuôi của Việt Nam vẫn ở mức khá cao so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Để hoá giải lực cản này, nhằm nâng cao tính cạnh tranh và củng cố vị thế cho ngành tôm, theo các doanh nghiệp, chỉ có nuôi quy mô lớn mới có điều kiện thực hiện các giải pháp kỹ thuật tiên tiến, mới giảm rủi ro, mới tăng năng suất, giảm giá thành, dễ truy xuất nguồn gốc…
Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, vẫn có không ít trang trại nuôi tôm quy mô lớn vẫn thất bại. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng theo nhận định tại các lần hội thảo chuyên đề thì cái gốc là tôm giống chất lượng chưa chuẩn mực, ổn định; là môi trường nuôi ngày càng có xu hướng xấu đi, dễ gây rủi ro, trong đó đáng kể là không đủ nước sạch cho nuôi tôm. Ông Lực đề xuất: “Rõ ràng việc cần làm là kiểm soát tích cực, chặt chẽ hơn không để tôm giống chất lượng kém lưu thông, tiêu thụ; là quan trắc tần suất cao hơn; là tăng đầu tư thủy lợi cho các vùng nuôi trọng điểm các địa phương”.
Nói về cơ hội của ngành tôm trong năm 2025 cũng như những năm tiếp theo, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta cho rằng, nếu để nói cơ hội bứt phá gần thì không rõ nét, nhưng cơ hội từ ưu thế về thuế quan thông qua các FTA Chính phủ đã ký kết là hết sức rõ ràng.
“Nhờ FTA và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp thủy sản tôm Việt Nam hiện chiếm vị trí hàng đầu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và trong top 2 ở châu Âu. Tôm Việt cũng giữ vị trí hàng đầu ở Úc cũng một phần có sự tác động từ CPTPP. Sắp tới, sau khi hiệp định CEPA ký với UAE có hiệu lực, sản phẩm Halal của chúng ta sẽ có cơ hội lớn thâm nhập thị trường Trung Đông rộng lớn. Trong vài năm tới, lợi thế từ các FTA chúng ta đang có sẽ giúp ngành tôm duy trì được lợi, từ đó giúp củng cố vị thế cho con tôm Việt Nam”, ông Hồ Quốc Lực dự báo.
Thông tin thêm về thị trường Nhật Bản, ông Lực đánh giá, đây là thị trường gần, cước tàu không biến động và phương thức thanh toán hết sức nhanh và an toàn, cũng là thị trường rộng lớn, cho nên đáp ứng các kỳ vọng của doanh nghiệp ngành tôm. Còn nếu nói về tiềm năng dài hạn của thị trường Nhật Bản, thì đây vẫn là thị trường trọng điểm của con tôm Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung, người tiêu dùng chú trọng sản phẩm có giá mềm hơn.
Để nắm bắt tốt cơ hội, điều trước tiên là ngành tôm cần nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm tôm của mình, thông qua việc phải giảm giá thành. Hiện tại, giá thành tôm nuôi của chúng ta còn cao quá, mà nguyên nhân là do tỷ lệ thu hồi trong nuôi tôm còn khá thấp và môi trường nuôi có xu hướng ngày càng xấu đi. Tỷ lệ nuôi thành công thấp, cơ bản là chất lượng con tôm giống chưa đồng đều, tôm giống không đạt chuẩn còn lén lúc lưu hành, tiêu thụ.
Ngoài ra còn những vấn đề khác như chuyện đánh mã số cơ sở nuôi, là nước sạch cho nuôi tôm… Về lâu dài thì cần khắc phục các điểm thắt cổ chai, là kiểm soát con giống, là đầu tư hạ tầng vùng nuôi trọng điểm, là kiểm soát chặt chẻ các chế phẩm nuôi tôm.
Về xu thế, để tăng ưu thế, chắc chắn ngành tôm còn nhiều việc lớn phải lo; tập trung vào động thái làm sao kiểm soát, hạn chế và giải pháp cụ thể trung hòa khí thải trong tất cả mắc xích chuỗi giá trị con tôm… để tiến tới phát triển ổn định và bền vững.
Trước thềm vụ tôm nước lợ năm 2025, cả doanh nghiệp và người nuôi tôm chỉ mong sao thời tiết ôn hòa, người nuôi tôm có mùa bội thu, giúp duy trì chuỗi giá trị con tôm và đợi thời cơ tăng trưởng, cũng như có những chương trình quốc gia giải quyết các tồn đọng lớn ngành tôm đang gặp phải. Về khách quan, nếu các xung đột lớn (Đông Âu, Trung Đông) chấm dứt sớm thì năm 2025 cũng là khởi đầu cho giai đoạn củng cố và tăng tốc của ngành tôm Việt Nam.
An Xuyên