Tại Thông tư 16/2018/TT-BNNPTNT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 48, quy định về kiểm tra, chứng nhận ATTP thủy sản xuất khẩu, đã có nhiều điểm mới được đưa ra.
Ảnh minh họa
Thông tư mới sửa đổi quy định về lấy mẫu, kiểm nghiệm đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm soát vệ sinh, trong đó chỉ quy định tần suất lấy mẫu tối đa theo xếp hạng cơ sở thay vì tần suất lấy mẫu trong tất cả các trường hợp cơ sở được kiểm tra định kỳ điều kiện ATTP tại Thông tư 48; bỏ chỉ tiêu TPC đối với tay/găng tay công nhân, các bề mặt tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm. Thông tư mới cũng sửa đổi quy định tỷ lệ lấy mẫu theo lô hàng sản xuất để thẩm tra ATTP đối với các cơ sở trong danh sách ưu tiên theo hướng giảm tỷ lệ mẫu thẩm tra ATTP đối với chỉ tiêu vi sinh vật, hóa học.
Thông tư sửa đổi điểm a, khoản 1 điều 2: Cơ sở có xuất khẩu sang các quốc gia, vùng lãnh thổ có yêu cầu lô hàng được cấp chứng thư bởi Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (NAFIQAD). Sửa đổi điểm a khoản 3 Điều 2 như sau: Cơ sở chỉ tiêu thụ nội địa; cơ sở xuất khẩu sang các quốc gia, vùng lãnh thổ không yêu cầu lô hàng được NAFIQAD cấp chứng thư.
Sửa đổi khoản 3 Điều 31: Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi nhận được báo cáo giải trình của cơ sở, cơ quan thẩm định thẩm tra các nội dung báo cáo và có văn bản thông báo kết quả thẩm tra tới cơ sở. Trường hợp cần thẩm tra thực tế, cơ quan thẩm định thực hiện và thông báo kết quả tới cơ sở trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ khi nhận được báo cáo của Cơ sở.
Việc sửa đổi lần này cũng rút ngắn thời gian xử lý thủ tục hành chính về kiểm tra, cấp giấy chứng nhận ATTP. Qua đó, thời hạn thông báo thời gian dự kiến tiến hành kiểm tra cho cơ sở là 3 ngày làm việc (thay vì 5 ngày theo thông tư cũ); thời hạn tiến hành kiểm tra thực tế tại cơ sở kể từ ngày hồ sơ đăng ký hợp lệ là 7 ngày làm việc (thay vì 10 ngày trước đây); thời hạn thông báo kết quả kiểm tra tới cơ sở kể từ ngày kiểm tra là 6 ngày làm việc (thay vì 7 ngày).
Về danh sách xuất khẩu, theo quy định của quốc gia, vùng lãnh thổ nhập khẩu hoặc thỏa thuận với cơ quan thẩm quyền của quốc gia, vùng lãnh thổ nhập khẩu, NAFIQAD lập và cập nhật Danh sách xuất khẩu theo từng thị trường đối với các Cơ sở đáp ứng đầy đủ các tiêu chí nêu tại khoản 3 Điều 20Thông tư này.
Thông tư mới cũng điều chỉnh quy định về điều kiện để đưa cơ sở trở lại danh sách ưu tiên, cụ thể: Cơ sở có lô hàng xuất khẩu và không có lô hàng nào bị cơ quan thẩm quyền của Việt Nam và thị trường nhập khẩu phát hiện vi phạm về ATTP trong thời gian tối thiểu 3 tháng kể từ ngày cơ sở được phân loại điều kiện bảo đảm ATTP là hạng 1, 2 (thay vì quy định cơ sở phải xếp hạng 1, 2 trong thời gian 12 tháng và không có lô hàng bị cảnh báo trong 3 tháng tại điểm b, c điều 22, Thông tư 48).
Cùng đó, thông tư mới cũng thay thế cụm từ “kiểm tra định kỳ” quy định tại Thông tư 48 bằng cụm từ “kiểm tra sau cấp giấy” để phù hợp với bản chất của hoạt động này, tránh gây hiểu nhầm. Sử dụng cụm từ “thẩm định cấp chứng thư” đối với hoạt động cấp chứng thư cho lô hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong/ngoài danh sách ưu tiên để phù hợp với bản chất của hoạt động này, đồng thời phù hợp với cụm từ tương ứng quy định tại Thông tư 286 của Bộ Tài chính.
Về thời gian thẩm định, cấp chứng: trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ khi lô hàng được xuất khẩu, chủ hàng phải cung cấp bằng văn bản đầy đủ các thông tin cần thiết quy định trong mẫu chứng thư theo yêu cầu của cơ quan thẩm quyền quốc gia, vùng lãnh thổ nhập khẩu cho cơ quan thẩm định để cấp chứng thư. Trong vòng 1 ngày làm việc kể từ khi nhận đầy đủ thông tin, cơ quan thẩm định tiến hành thẩm định cấp chứng thư cho lô hàng xuất khẩu theo mẫu của quốc gia, vùng lãnh thổ nhập khẩu tương ứng nếu kết quả thẩm định, kiểm nghiệm lô hàng đạt yêu cầu. Sau thời hạn 90 ngày kể từ ngày kiểm tra, nếu chủ hàng không cung cấp đầy đủ thông tin cho cơ quan thẩm định để thẩm định, cấp chứng thư, chủ hàng phải thực hiện đăng ký thẩm định như quy định tại Điều 29 Thông tư này.
Theo ban soạn thảo, việc sửa đổi thông tư này cũng là thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao Bộ NN&PTNT tại khoản 6, mục III, Nghị quyết số 19 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020. Đồng thời, đáp ứng một số kiến nghị của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và VASEP trên cơ sở đánh giá các khó khăn, thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện Thông tư 48.