(TSVN) – Năm 2025, đất nước có nhiều lễ kỷ niệm lớn, nhưng có lẽ mốc lịch sử quan trọng nhất là kỷ niệm 50 năm thống nhất nước nhà. Nửa thế kỷ trôi qua chứa đựng biết bao ký ức gian khó nhưng cũng đầy vinh quang và thật đáng tự hào về một đất nước Việt Nam đã hòa chung sức mạnh của hai miền, như câu thơ của Bác Hồ: “Bắc – Nam sum họp xuân nào vui hơn”.
Dù tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm dần (từ khoảng 66% đầu những năm 1980 đến năm 2021 là 29,1%) nhưng đóng góp của ngành nông nghiệp cho đất nước vẫn không ngừng tăng trong những năm qua.
Theo con số thống kê, năm 1975, sản lượng lúa nước ta khoảng 10,3 triệu tấn. Đến năm 2021, sản lượng lúa là 43,85 triệu tấn, tăng gấp 4,3 lần. Giai đoạn 1976 – 1980, thiếu hụt lương thực ở mức 2 triệu tấn năm, phải nhập khẩu. Năm 2021, xuất khẩu 6,2 triệu tấn gạo đạt kim ngạch 3,3 tỷ USD. Xuất khẩu gạo 11 tháng đầu năm 2024 đạt gần 8,5 triệu tấn và 5,31 tỷ USD, tăng 10,6% về khối lượng và tăng 22,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023.
Năm 1980, tổng sản lượng thủy sản giảm so với năm 1975 từ 607 nghìn tấn xuống còn 377 nghìn tấn. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2024 ước đạt 1,3 triệu ha nuôi nội địa và 9,5 triệu m³ lồng nuôi biển; tổng sản lượng ước đạt gần 5,4 triệu tấn.
Ngành nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng bình quân giai đoạn 1988-2021 là 3,66%/năm so với mức trung bình thế giới khoảng 2%.
Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt mức cao kỷ lục 62,4 tỷ USD (tăng 18,5% so với năm 2023), xuất siêu tiếp tục đạt mức kỷ lục mới 18,6 tỷ USD (tăng 53,1% so với năm 2023).
Riêng với ngành thủy sản, kim ngạch xuất khẩu năm 2024 ước đạt khoảng 10,07 tỷ USD, đạt 106% so với kế hoạch (9,5 tỷ USD), tăng 12,1% so với năm 2023 (8,98 tỷ USD).
Công cuộc đổi mới, cải cách kinh tế, mở cửa hòa nhập phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu đã giúp đất nước Việt Nam chúng ta đạt được những thành tựu rực rỡ.
Những năm 1980, quy mô nền kinh tế tự cung tự cấp chỉ khoảng 26,3 tỷ USD, nhưng sau gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã đạt 430 tỷ USD (vào năm 2023), đưa Việt Nam vào nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Việt Nam đã có quan hệ kinh tế – thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương, trong đó có 17 Hiệp định thương mại tự do, bao gồm Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hiện ước đạt 800 tỷ USD/năm, gấp đôi GDP cho thấy vai trò vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu. Tổng cục Hải quan dự báo, kim ngạch xuất siêu năm 2024 ước đạt 23,5 tỷ USD.
Quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước đạt mức gần 110 tỷ USD vào năm 2022, gấp 10 lần quy mô dự trữ ngoại hối Nhà nước năm 2010 và gấp gần 4 lần so với năm 2015 và sẽ còn tiếp tục tăng theo quy mô của nền kinh tế.
Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chỉ tính riêng 11 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã thu hút được khoảng 31,4 tỷ USD, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo.
Cùng với sự phát triển, Việt Nam đã tham gia hơn 70 tổ chức quốc tế và hiệp hội cũng như diễn đàn, trong đó có Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đặc biệt là Liên hợp quốc. Gần đây, Việt Nam đã tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của UN góp phần đem lại hòa bình thịnh vượng cho người dân ở nhiều nơi trên thế giới.
Quy mô tổng sản phẩm nội địa (GDP) của nền kinh tế Việt Nam năm 2023 ước đạt 430 tỷ USD, xếp thứ 34 thế giới theo bảng xếp hạng của Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và kinh doanh ở Anh (CEBR). Theo dự báo, nếu tiếp tục duy trì tăng trưởng thì đến năm 2038, với quy mô GDP dự kiến đạt 1.559 tỷ USD, nền kinh tế Việt Nam sẽ lọt nhóm 25 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Nếu xét về GDP (PPP) hay còn gọi là GDP theo sức mua thì theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam hiện đạt khoảng 1.438 tỷ USD xếp trên Hà Lan và Thụy Sĩ (GDP (PPP) Hà Lan đạt khoảng 1.290 tỷ USD, xếp thứ 27 trên thế giới và Thụy Sĩ đạt khoảng 787 tỷ USD, xếp thứ 35 trên thế giới vào năm 2023).
Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố vào tháng 4/2024, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam giai đoạn 2012-2022 đã tăng hơn 2,3 lần, từ 1,99 triệu đồng/người/tháng lên 4,67 triệu đồng/người/tháng.
Hiện nay, cả nước có khoảng 3,356 triệu người (chiếm khoảng 3,356 % dân số) đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng tại cộng đồng. Từ ngày 1/7/2024, mức chuẩn trợ cấp xã hội tăng từ 360.000 đồng/tháng lên 500.000 đồng/tháng, tương ứng tăng 38,9% so với mức trợ cấp trước đó.
Trong Báo cáo hạnh phúc thế giới 2024 (do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc công bố), Việt Nam đứng thứ 54, tăng 11 bậc so với năm 2023. Xét ở khu vực châu Á, Việt Nam đứng vị trí thứ 6.
Tuổi thọ trung bình người Việt năm 1990 chỉ có 65,3 tuổi, nay tuổi thọ trung bình là 74,5 tuổi.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1975 thu nhập của gia đình xã viên nông nghiệp là 18,6 đồng (tương đương khoảng 6,5 USD/người/tháng). Mức thu nhập bình quân của lao động ở khu vực nông thôn trong quý 2 năm 2024 là 6,5 triệu đồng/tháng (tương đương 255 USD).
Sau 20 năm phát triển, sản lượng thủy sản năm 2023 đạt hơn 9,3 triệu tấn, gấp 7,1 lần so với năm 1995, nuôi trồng thủy sản đạt 5,5 triệu tấn, gấp hơn 5 lần so với năm 1995. Tỷ trọng sản lượng nuôi trồng tăng từ 31% năm 1995 lên gần 57% năm 2023.
Xuất khẩu thủy sản lần đầu tiên vượt ngưỡng 1 tỷ USD là vào năm 1999 và đã đạt con số gần 11 tỷ USD vào năm 2022. Việt Nam nằm trong TOP 3 các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới (Trung Quốc, Na Uy, Việt Nam).
Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu tôm đạt hơn 4 tỷ USD, tăng gần 17% so với 2023. Xuất khẩu cá tra chạm mốc 2 tỷ USD. Xuất khẩu cá ngừ, vẫn giữ được con số kỷ lục 1 tỷ USD (thiết lập năm 2022). Xuất khẩu nhuyễn thể có vỏ đạt mức tăng trưởng ấn tượng tới 180%. Xuất khẩu bột cá ước đạt 264,6 triệu USD.
Các chuyên gia đều lạc quan đánh giá, trong năm 2025, xuất khẩu thủy sản sẽ đạt trên 10 tỷ USD, tăng trưởng từ 10 – 15% so với năm 2024.
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, hiện cả nước có khoảng trên 50.000 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, một con số được xem là “khiêm tốn” so với tổng số hơn 900.000 doanh nghiệp đang hoạt động.
Tính đến hết tháng 10/2024, tổng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ đạt khoảng 4,8 tỷ USD với 1.300 dự án chế biến, nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ sinh học. So với mục tiêu mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt ra đến năm 2030, vốn FDI đăng ký trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 25 tỷ USD, rõ ràng còn nhiều việc phải làm.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến thời điểm tháng 4/2024, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu đổ vào lĩnh vực chăn nuôi (khoảng 2,2 tỷ USD, với 81 dự án tập trung vào nhiều lĩnh vực khác nhau, như: thức ăn, chăn nuôi heo, gà, bò, chế biến thịt…)
Trong lĩnh vực thủy sản, nguồn vốn FDI rất hạn chế với khoảng hơn 300 triệu USD cho hơn 70 dự án, chủ yếu nuôi trồng, chế biến, sản xuất thức ăn thủy sản. Hầu hết dự án quy mô nhỏ với khoảng 4,4 triệu USD cho một dự án.
Theo các chuyên gia, hiện ngành thủy sản rất cần nguồn vốn mới để có những bước đột phá về con giống, kỹ thuật nuôi trồng, chế biến, xây dựng thương hiệu tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Thực tế, diện tích nuôi trồng thủy sản đã tăng rất nhanh những năm qua, song sản lượng nuôi trồng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiều doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài để chế biến xuất khẩu.
Việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước chắc chắn phụ thuộc vào việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng của các địa phương, cũng như những chính sách ưu đãi mạnh mẽ dành cho phát triển thủy sản.
Hy vọng năm 2025 và những năm tới, “làn sóng” đầu tư vào ngành thủy sản Việt Nam sẽ mạnh mẽ hơn nữa, góp phần thúc đẩy nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản tạo ra những cột mốc lịch sử mới.
Bước sang năm 2025, ngành thủy sản đặt mục tiêu xuất khẩu 10,5 tỷ USD, tăng 4,3% so với năm 2024.
Nguyễn Anh