Phụ gia thức ăn mới từ phụ phẩm dứa

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Chiết xuất từ phụ phẩm dứa (PWCE) được sử dụng rộng rãi ở động vật để thúc đẩy việc sử dụng thức ăn và sức khỏe, đồng thời có tác dụng kháng khuẩn. Ngoài ra, PWCE được cho là có hoạt tính kháng virus, chống viêm và chống đông máu có lợi cho sức khỏe của tôm.

Thiết lập thử nghiệm

Hậu ấu trùng (PL12) tôm thẻ chân trắng (TTCT) được lấy từ một trang trại tư nhân ở Samut Sakhon, Thái Lan, nuôi thích nghi trong bể có thể tích 1.000 L, độ mặn 10 ppt và cho ăn thức ăn viên chứa 38% protein, cho ăn 5 lần/ngày trong hai tuần. Các viên thức ăn được phủ PWCE ở dạng lỏng bằng cách phun lên trên bằng bình xịt và sau đó sấy khô ở nhiệt độ phòng (30°C) trong 1 giờ. Sau đó, các viên này được phủ 1% dầu cá (Prima, Ltd., Thái Lan) rồi sấy khô ở nhiệt độ phòng trong 24 giờ. Các viên khô được đặt trong hộp nhựa có nắp đậy và bảo quản ở nhiệt độ phòng. Tôm được cân ngẫu nhiên trong suốt quá trình thí nghiệm.

PWCE được thu thập từ ngọn và vỏ dứa (Ananas comosus L.) từ một đồn điền ở tỉnh Phetchaburi của Thái Lan. Thí nghiệm được thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên với bốn phương pháp điều trị và bốn lần lặp lại. Trọng lượng tôm ban đầu là 0,51 g và được nuôi mật độ 20 con/bể. Các mức độ bổ sung PWCE ở 0, 90, 170 và 250 ppt.

Trong quá trình thí nghiệm, tỷ lệ tôm chết và lột xác được ghi lại hàng ngày, tôm trong mỗi bể được đếm và cân hàng tháng. Nhiệt độ và pH được đo hàng ngày, trong khi amoniac tự do, nitrit, độ kiềm, canxi và magie được phát hiện hàng tuần cho đến khi kết thúc thí nghiệm. Hiệu suất tăng trưởng được theo dõi để xác định mức tăng trọng (WG), tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR), mức tăng trung bình hàng ngày (ADG), tỷ lệ sống (SR), lượng thức ăn ăn vào (FI), tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và hiệu quả sử dụng protein (PER).

Kết quả

Hiệu suất tăng trưởng về trọng lượng cuối cùng, WG và SGR là khác biệt đáng kể nhất ở tôm được cho ăn bằng thức ăn có bổ sung PWCE ở mức 250 ppt. Ngoài ra, tốc độ lột xác và năng suất của nhóm này cao hơn đáng kể so với các nhóm khác, trong khi ADG và SR không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm.

Kết quả cho thấy tỷ lệ chuyển đổi thức ăn, và hiệu quả sử dụng protein tốt nhất ở nhóm tôm được bổ sung 250 ppt PWCE trong chế độ ăn.

Việc bổ sung PWCE không ảnh hưởng đến chất lượng nước của ao nuôi tôm, tuy nhiên, giá trị amoniac hòa tan có xu hướng thấp hơn ở nhóm bổ sung 250 ppt PWCE, điều này cho thấy mối quan hệ giữa mức độ sử dụng protein và lượng nitơ thải ra, tỷ lệ tiêu hóa protein cao làm giảm lượng chất thải nitơ trong ao nuôi.

Chế độ bổ sung PWCE trong thức ăn đã ảnh hưởng đến số lượng vi khuẩn trong gan tụy của TTCT. Mức bổ sung 90 ppt của PWCE giúp tăng cường khả năng phát triển của vi khuẩn trong gan tụy với số lượng vi khuẩn tăng gấp 12,67 lần so với đối chứng. Số lượng Vibrio giảm đáng kể ở nghiệm thức 250 ppt, giảm 14,43 lần, trong khi các nghiệm thức khác không khác biệt đáng kể so với đối chứng.

Nguyễn Hằng

Theo Hindawi

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!