(TSVN) – Các bệnh tôm nguy hiểm và phổ biến bao gồm: Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND hay EMS), bệnh vi bào tử trùng (EHP) và bệnh phân trắng (WFD hay WFS). EHP và WFD hiện nay rất phổ biến là mối quan tâm hàng đầu của người nuôi tôm, vì chưa có giải pháp hoàn hảo để chữa trị và có vẻ thực tế nuôi cho thấy các bệnh này dễ bội nhiễm trên tôm.
Vùng ĐBSCL chiếm trên 80% diện tích và sản lượng tôm nuôi cả nước, là vùng nuôi có 2 mùa mưa và nắng rõ rệt. Mùa nắng, các yếu tố mặn cao và nhiệt độ cao làm ôxy khó hòa tan vào nước cùng với thức ăn dư thừa và tảo dễ bùng phát, khó quản lý dễ sụp tảo đưa đến tiêu hao cạn kiệt nguồn ôxy hòa tan trong nước ao làm môi trường đáy ao yếm khí và dễ bùng phát dịch bệnh cho tôm. Ngược lại, mùa mưa chủ yếu do sự biến động lớn các yếu tố môi trường nước ao nuôi theo sau những cơn mưa dễ làm tôm bị sốc (stress) và tôm dễ mẫn cảm hơn với bệnh, đặc biệt khi tôm bị sốc và dễ lột xác sau mưa là cơ hội tuyệt vời cho các mầm bệnh xâm nhập do tôm vừa lột xác rất yếu, khó cứng vỏ nhanh khi bị stress nặng.
Các bệnh tôm nguy hiểm và phổ biến bao gồm: Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND hay EMS), bệnh vi bào tử trùng (EHP) và bệnh phân trắng (WFD hay WFS). EHP và WFD hiện nay rất phổ biến là mối quan tâm hàng đầu của người nuôi tôm, vì chưa có giải pháp hoàn hảo để chữa trị và có vẻ thực tế nuôi cho thấy các bệnh này dễ bội nhiễm trên tôm.
Cần tăng cường các giải pháp quản lý môi trường ao nuôi ở khoảng tối ưu, giúp tôm phát triển thuận lợi. Ảnh: Thanh Phúc
Bệnh gan tụy cấp (AHPND hay EMS) đã được TS Lộc Trần và TS Lighner xác định do Vibrio parahaemolyticus và hiện nay với giải pháp điều chỉnh môi trường ao nuôi cùng với một số thuốc và thảo dược điều trị 3 – 5 ngày tôm sẽ khỏi bệnh, nên người nuôi dễ dàng hơn trong việc kiểm soát bệnh.
Bệnh vi bào tử trùng EHP do vi bào tử trùng (Microsporidian) gây ra nhưng gần đây nhóm vi bào tử Microsporidian được xếp loại thuộc nhóm nấm. Trong thực tế người nuôi ghi nhận bệnh vi bào tử trùng EHP xảy ra phổ biến trong 45 ngày đầu của vụ nuôi. Bệnh EHP nếu nhiễm từ nguồn tôm giống do không được sàng lọc bệnh đúng phương pháp xét nghiệm (Nested PCR hoặc Realtime PCR) thì bệnh dễ biểu hiện ra trong 30 ngày đầu thả nuôi và nếu nhiễm nặng sẽ dễ bội nhiễm với bệnh gan tụy cấp (AHPND). Trường hợp bệnh EHP nhiễm từ nguồn nước ở trại nuôi thì bệnh dễ xảy ra phổ biến trong khoảng thời gian 30 – 45 ngày, một số trường hợp trễ hơn khi tôm đạt 45 – 60 ngày nuôi và trường hợp này bệnh EHP dễ bội nhiễm với bệnh phân trắng.
Bệnh phân trắng (WFD) hay Hội chứng phân trắng (WFS) đã có rất nhiều đánh giá, nghiên cứu và khảo sát bệnh với nhiều nhận định khác nhau trên các nguyên nhân gây bệnh bao gồm Vibrio sp., Gregarine và bội nhiễm với vi bào tử trùng EHP; nhưng cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu khẳng định tác nhân chính gây bệnh phân trắng. Tuy nhiên, gần đây Luis và Cộng sự (2021) thực hiện thí nghiệm bội nhiễm trên nguồn tôm nhiễm EHP với Vibrio parahaemolyticus lấy từ ruột tôm bị bệnh phân trắng cho kết quả thú vị, là tôm bị phân trắng và bệnh EHP sẽ nặng hơn khi có hiện diện của Vibrio parahaemolyticus.
Thực tế cho thấy, đặc điểm này gần như giống nhau trên tất cả các loài sinh vật, kể cả con người là sinh vật dễ nhiễm bệnh theo sau các yếu tố gây sốc. Trên tôm cũng vậy và rõ nhất là bệnh gan tụy cấp và bệnh phân trắng dễ quan sát thấy tôm bệnh sau các yếu tố môi trường đáy ao vượt ngưỡng chịu đựng hay sau những ngày nắng nóng kéo dài, sau những cơn mưa lớn, sau khi tảo dày và sụp tảo, tôm rất dễ bị gan tụy và phân trắng, kể cả bội nhiễm vi bào tử EHP. Vì vậy, quản lý các yếu tố gây sốc bằng các chiến lược dùng thức ăn chống stress, quản lý yếu tố môi trường trong khoảng tối ưu và có giải pháp khác nhau trong mùa mưa hay mùa nắng là chìa khóa giúp tôm nuôi vượt qua dịch bệnh và tăng trưởng tốt.
Hiện nay, hầu hết người nuôi tôm ao bạt đều thả ương tôm (gièo tôm) ở mật độ cao 1.000 – 5.000 con/m2, nên bản chất của ao ương gièo ở trại nuôi gần như ương tôm giống. Hơn nữa tôm giống ở trại nuôi được cho ăn bằng các dòng thức ăn giống chất lượng đạm cao (50% – 60% đạm) chứa nhiều bột cá nhập, bột mực, bột krill, bột tảo biển và các chiết xuất tảo cùng các nguồn nguyên liệu đạm lên men chứa nhiều peptides sinh học (biopeptides) chống stress và kháng khuẩn cùng phụ gia chứa nhiều dinh dưỡng chống ôxy hóa và các chất chống stress (carotenoids, Vitamin E, C, D3, A, nucleotides, beta-glucan, taurine, glutamine, Methionine, Sorbitol…). Các nghiên cứu của Công ty Công nghệ sinh học ở Đài Loan (Sciencechain Biotechnology Ltd.) cũng khẳng định, các nhóm peptides sinh học đặc biệt (có tên Bacteriocins) loại bỏ được bào tử của vi bào tử trùng EHP và nguồn đạm lên men MOTIV chứa nhiều peptides sinh học cũng bắt đầu được các công ty thức ăn tôm quan tâm.
Vì vậy, các trại gièo ở trại nuôi nên tiếp cận dùng các loại thức ăn gièo có chất lượng như thức ăn ở trại giống, có hàm lượng đạm cao, dinh dưỡng chống stress cũng như nguồn thức ăn gièo được sản xuất dạng viên cỡ nhỏ bằng công nghệ ép đùn ít làm dơ nước… Hiện nay, trên thị trường có một số Tập đoàn như Cargill & Biomar có nguồn thức ăn gièo với công nghệ ép đùn dạng viên từ kích cỡ 300 – 1.000 µm (0,3 – 1 mm) và giàu độ đạm (50% đạm), giàu các nguồn dinh dưỡng chống stress và chống ôxy hóa… Công nghệ ép đùn dạng viên không chỉ giúp nước ao gièo và ao tôm ít bẩn mà còn giúp viên thức ăn dễ áo vitamin và men tiêu hóa hơn và cùng với dinh dưỡng giàu đạm và giàu dinh dưỡng chống stress, sẽ giúp tôm tăng trưởng tốt, sức khỏe tốt và có sức đề kháng tốt để chống chịu stress, vượt qua dịch bệnh.
Ngoài ra, ở giai đoạn nuôi sau khi ương tôm việc chọn đúng nguồn thức ăn dinh dưỡng cao, chống stress tốt, có các peptides sinh học loại bỏ từ từ bào tử của vi bào tử trùng EHP để mật độ vi bào tử trùng thấp không đủ gây bệnh. Cùng với việc quản lý yếu tố môi trường nước ao nuôi trong khoảng tối ưu sẽ giúp tôm ít bị stress và dễ dàng vượt qua dịch bệnh, tăng trưởng tốt với hệ số thức ăn thấp nhất giúp vụ nuôi thành công và lợi nhuận hơn.
Như đã đề cập, yếu tố môi trường nước ao phải được quản lý trong khoảng tối ưu bao gồm: hàm lượng ôxy hòa tan (DO), pH, hàm lượng kiềm thích hợp và khí độc Ammonia và Nitrite dưới mức cho phép. Cụ thể: Ôxy hòa tan: Tối thiểu 6 mg/L giai đoạn gièo tôm và tối thiểu 5 mg/L giai đoạn sau gièo; pH: 7.5 – 8 trong mùa nắng hay 7.8 – 8.3 trong mùa mưa; Kiềm: 120 – 180 mg/L cho giai đoạn gièo ít thay nước, tối thiểu 100 mg/L cho giai đoạn nuôi trong mùa nắng. Trong mùa mưa độ kiềm nên đạt tối thiểu 150 mg/L cho cả giai đoạn gièo và giai đoạn nuôi. Khí độc Ammonia nên quản lý tổng ammonia (TAN) < 1 mg/L nếu nuôi pH 7.5 – 8 hoặc TAN < 0.5 mg/L nếu nuôi pH 8 – 8.3.
Người nuôi cũng cần lưu ý, việc quản lý các yếu tố trên tập trung vào 1) Thức ăn và chương trình cho ăn; 2) Lượng máy quạt và vỉ ôxy lắp đặt cho ao; 3) Cách dùng vôi và khoáng để điều chỉnh pH và kiềm khác nhau trong mùa mưa và mùa nắng; 4) Cách dùng màu giả và men vi sinh để kiểm soát tảo và khí độc trong ao trong mùa mưa và mùa nắng.
Mùa nắng, người nuôi nên tập trung nhiều hơn vào việc kiểm soát tảo và hàm lượng DO trong ao thông qua mái che, mực nước và một số thủ thuật kiểm soát tảo thông qua quạt nước, màu giả và men vi sinh. Mùa mưa có sự biến động lớn các yếu tố môi trường, đặc biệt độ mặn, pH và kiềm, nên việc kiểm soát 3 yếu tố này đòi hỏi sự kết hợp nguồn thức ăn cho mặn thấp chống stress và các nguồn khoáng tăng mặn, tăng kiềm; đồng thời cần phát triển quy trình xử lý nguồn nước và dùng khoáng tăng mặn, tăng kiềm riêng cho mùa mưa để đảm bảo sự biến động của độ mặn, pH và kiềm thấp nhất.
TS Nguyễn Duy Hòa
Giám đốc kỹ thuật toàn cầu Ngành hàng Empyreal & MOTIV Cargill Inc.