(TSVN) – Những năm gần đây, nghề nuôi cá biển đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ về diện tích nuôi và sản lượng ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển mô hình nuôi thâm canh, mật độ cao kết hợp với diễn biến thời tiết bất thường đã dẫn tới sự gia tăng dịch bệnh, gây thiệt hại không nhỏ cho người nuôi, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm gây ra do vi khuẩn. Vì thế, bài viết này nhằm cung cấp những thông mới nhất về các bệnh nhiễm khuẩn phổ biến trên cá biển cũng như biện pháp phòng ngừa và điều trị.
Đối với nhiều loài cá biển, đặc biệt là cá vược (Vandeputte et al. 2019), mắc bệnh tenacibaculosis có đặc trưng là các lở loét với tỷ lệ tử vong cao. Tenacibaculum maritimum là tác nhân chính gây ra căn bệnh này. Các triệu chứng lâm sàng bên ngoài có thể bao gồm thối đuôi, loét bề mặt cơ thịt và miệng và hoại tử vây (Mabrok et al. 2023).
Ngoài ra, một trong những bệnh nhiễm khuẩn phổ biến khác ảnh hưởng đến nhiều loài cá biển và động vật hai mảnh vỏ là bệnh vibriosis. Căn bệnh này có thể gây tử vong lên đến 50% và ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn phát triển của cá. Các triệu chứng bao gồm cá bơi lội lờ đờ, loét da, thối vây, chán ăn, xuất huyết và sung huyết ở gan, thận và lá lách (Mohamad et al. 2019). Khi ở giai đoạn nặng hơn, cá bị nhiễm trùng toàn thân có thể dẫn đến tử vong (Deng et al. 2020). Một số loài vi khuẩn thuộc họ Vibrionaceae gây ra bệnh này bao gồm Vibrio harveyi, Vibrio vulnificus, Vibrio parahaemolyticus, Vibrio alginolyticus, và Vibrio anguillarum.
Bên cạnh đó, nhóm vi khuẩn Aeromonas spp, trong đó A.hydrophyla được xem là tác nhân gây bệnh phổ biến trên các loài cá biển, với các triệu chứng phổ biến bao gồm xuất huyết và chấm xuất huyết trên các cơ quan nội tạng và và bề mặt, lá lách to, chán ăn, và hoại tử mô kẽ của thận.
Hiện tại, kháng sinh được sử dụng phổ biến để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn trong nuôi trồng thủy sản. Theo một nghiên cứu của Lulijwa và cộng sự (2020), 75% các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản sử dụng oxytetra cycline, florfenicol, and sulphadiazine, trong đó 55% sử dụng erythromycin, amoxicillin, sulphadimethoxine, và enrofloxacin. Việc lạm dụng kháng sinh đã dẫn tới sự xuất hiện của các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc, gây tác động tiêu cực đến an toàn thực phẩm và sức khỏe con người. Đối với ngành cá biển, nghiên cứu Griffin và cộng sự (2020) cho thấy 90% vi khuẩn gây bệnh trên cá biển là các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc, 20% trong số đó là kháng ít nhất 1 loại kháng sinh trở lên. Những kết quả trên cho thấy, sử dụng kháng sinh không còn được xem là một giải pháp hiệu quả, và cần phải có những nghiên cứu, phát triển phương pháp điều trị mới để thay thế.
Thể thực khuẩn được xem là một giải pháp tiềm năng trong việc điều trị bệnh nhiễm khuẩn. Thể thực khuẩn được xem là virus có khả năng ký sinh trên vi khuẩn. Thành phần chính của thể thực khuẩn là lõi protein, bên trong có chứa vật chất di truyền là DNA hoặc RNA. Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc vào số lượng, tần suất và phương pháp áp dụng. Nghiên cứu Silva và cộng sự cho thấy, độ mặn và hàm lượng vật chất hữu cơ trong nước có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả điều trị của thể thực khuẩn. Theo đó, hiệu quả điều trị của thể thực khuẩn sẽ tỷ lệ thuận với nồng độ muối ở trong nước, điều này cho thấy phương pháp này khá phù hợp để áp dụng trong ngành nuôi cá biển.
Từ thập niên 1980s, vaccine đã được ứng dụng thành công trong ngành công nghiệp nuôi cá Hồi ở Na Uy, giảm 90% lượng kháng sinh sử dụng. Vaccine dùng trong thủy sản bao gồm: Vaccine sống giảm độc lực, vắc xin bất hoạt, DNA vaccine, vaccine tiểu đơn vị. Hiện tại, chỉ có vaccine bất hoạt là được phép sử dụng rộng rãi và thương mại hóa thành công trong thủy sản. Tuy nhiên, việc phát triển một loại vaccine có khả năng phòng được nhiều bệnh, giá cả phải chăng vẫn đang gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó tác dụng phụ của vaccine cũng là điều khiến người nuôi cân nhắc khi sử dụng.
Peptide kháng khuẩn được xem là một thành phần của hệ miễn dịch tự nhiên của cá. Phần lớn các peptide kháng khuẩn có nguồn gốc từ động vật có và không có xương sống và sẽ hoạt động theo cơ chế không cần thụ thể. Ưu điểm của peptide kháng khuẩn có khả năng bảo vệ vật chủ chống lại nhiều mầm bệnh, duy trì hiệu quả trong điều kiện môi trường bất lợi, khả năng xảy ra hiện tượng kháng kháng khuẩn thấp. Có năm loại peptide kháng khuẩn phổ biến là Piscidins, Defensins, Hepcidines, Cathelicidins, and Histone.
Nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng probiotics, prebiotics and synbiotics giúp tăng tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, tăng cường khả năng miễn dịch ở nhiều loài cá biển. Probiotics là những vi khuẩn có lợi có khả năng tồn tại và phát triển trong đường ruột của cá, giúp ức chế các vi khuẩn có hại. Prebiotics là những chất xơ không tan, là nguồn thức ăn cho hệ vi khuẩn đường ruột.Vì thế, việc kết hợp sử dụng probiotic và prebiotic sẽ giúp tăng cường sức khỏe đường ruột, tối ưu hóa việc sử dụng thức ăn, qua đó giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi nhuận của người nuôi.
Thảo dược từ lâu cũng được sử dụng rộng rãi trên nhiều đối tượng cá biển do những tác dụng tích cực như giảm stress, tăng cường hoạt động của enzyme protease, tiết ra các hợp chất kháng khuẩn giúp phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn phổ biến.
Bệnh nhiễm khuẩn là một vấn đề gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành nuôi cá biển. Hiện tại, kháng sinh vẫn là phương pháp điều trị phổ biến, tuy nhiên việc gia tăng các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc, đòi hỏi cần phải có giải pháp điều trị phù hợp hơn. Việc sử dụng probiotics, prebiotics và thảo dược cũng mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng tùy thuộc vào loài, giai đoạn phát triển, mầm bệnh, quy trình kỹ thuật cũng như các yếu tố môi trường.
Lê Nguyễn Diệu An