(TSVN) – Với lợi thế lớn về vùng biển và hệ thống sông ngòi, những năm qua, ngành thủy sản của tỉnh đã có những bước phát triển tích cực, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Áp dụng công nghệ
Thanh Hóa có bờ biển dài 102 km, với vùng biển rộng 17.000 km², là một trong những ngư trường quan trọng, có tính đa dạng sinh học cao. Dọc bờ biển Thanh Hóa có 7 cửa lạch lớn nhỏ, trong đó, có 5 cửa lạch lớn là Lạch Sung, Lạch Trường, Lạch Hới, Lạch Ghép, Lạch Bạng, đã tạo nên hàng nghìn ha nuôi trồng thủy sản và là một trong những tỉnh có tiềm năng nuôi trồng thủy sản lớn nhất vùng Bắc Trung bộ.
Vùng ven biển Thanh Hóa bao gồm 6 huyện, thị xã, thành phố, là nơi tập trung phát triển kinh tế thủy sản của tỉnh, với các hoạt động nuôi trồng, khai thác, dịch vụ hậu cần và chế biến thủy sản. Ngành thủy sản đã thu hút khoảng 25.000 lao động trực tiếp tham gia trên biển.
Nuôi trồng thủy sản được xem là một thế mạnh của Thanh Hóa. Những năm qua, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã đầu tư chuyển đổi diện tích nuôi trồng thủy sản kém hiệu quả sang nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị kinh tế. Trong đó, nuôi tôm trong ao phủ bạt có mái che đang được người nuôi tôm quan tâm đầu tư.
Thanh Hóa có khoảng 70.000 m³ thể tích nuôi lồng bè. Ảnh: Đặng Trung
Thanh Hóa hiện có 930 ha nuôi tôm thẻ chân trắng, có 220 ha nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh trong nhà màng, nhà lưới. Việc ứng dụng công nghệ nuôi tôm thâm canh có mái che đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nghề nuôi tôm nước lợ ở Thanh Hóa. Mô hình khắc phục được các yếu tố bất lợi về khí hậu, môi trường nước. Thông thường, 1 ha ao nuôi có mái che, cần sử dụng tới 3 ha ao lắng, nên nguồn nước cung cấp bảo đảm an toàn, kiểm soát dịch bệnh tốt. Hệ thống mái che giúp điều hòa được nhiệt độ, nhất là giữ được nhiệt độ phù hợp với con tôm trong mùa đông. Với hình thức nuôi này, mỗi năm trên diện tích 1 ha, người nuôi tôm có thể nuôi từ 3 – 4 vụ, cho doanh thu từ 2 – 2,5 tỷ đồng, trừ chi phí lợi nhuận đạt trên 800 triệu đến hơn 1 tỷ đồng.
Ngoài ra, địa phương còn có khoảng 70.000 m³ thể tích nuôi lồng bè với hàng nghìn lồng nuôi cá biển và cá nước ngọt, sản lượng đạt khoảng 1.500 tấn/năm. Các địa phương trong tỉnh đã khai thác, phát huy tốt tiềm năng lợi thế, mở rộng vùng nuôi và đa dạng hóa con nuôi thủy sản, tạo thu nhập cho người dân.
Về khai thác, tính đến năm 2024, toàn tỉnh có trên 6.500 tàu cá, trong đó có hơn 1.100 tàu khai thác vùng khơi, gần 900 tàu khai thác vùng lộng và 4.733 tàu cá khai thác vùng ven bờ. Sản lượng khai thác thủy sản của tỉnh đạt trên 140.000 tấn, vượt kế hoạch đề ra.
Hiện Thanh Hóa có khoảng 80 doanh nghiệp chế biến thủy, hải sản, trong đó có 6 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thủy sản chính ngạch. Các mặt hàng chủ yếu gồm: Chả cá surimi, ngao đông lạnh, ngao sấy khô, hải sản đông lạnh, bột cá, nước mắm, mắm tôm, mắm tép,… và xuất khẩu đến các thị trường: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, thị trường EU và Mỹ. Theo các doanh nghiệp, hoạt động xuất khẩu thủy sản trong những tháng gần đây đang có dấu hiệu khởi sắc, ngoài thị trường truyền thống, một số doanh nghiệp đã tìm kiếm được các đơn hàng mới. Trong năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Thanh Hóa đạt trên 110 triệu USD.
Giải pháp đồng bộ
Tuy nhiên, hiện, ngành thủy sản Thanh Hóa cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức bởi quy mô sản xuất thủy sản còn nhỏ, lẻ, phân tán, số lượng tàu cá khai thác vùng khơi còn ít, năng lực khai thác thủy sản còn hạn chế. Trình độ nhận thức của một bộ phận ngư dân còn hạn chế, dẫn đến vi phạm các quy định trong lĩnh vực khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Tình trạng khai thác IUU vẫn còn diễn ra, gây ảnh hưởng đến uy tín và sự phát triển bền vững của ngành thủy sản,…
Vì vậy, để ngành thủy sản Thanh Hóa phát triển bền vững, cần có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả. Khuyến khích người dân tích tụ đất hình thành các vùng nuôi trồng tập trung, lựa chọn những đối tượng con nuôi thủy sản phù hợp. Đồng thời, đầu tư xây dựng hệ thống và nâng cấp hạ tầng các vùng nuôi tập trung, thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách hỗ trợ để các hộ NTTS đạt hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cho tàu cá khai thác vùng khơi, nâng cao năng lực khai thác thủy sản. Nâng cao trình độ nhận thức của ngư dân về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát để ngăn chặn tình trạng khai thác IUU. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến thủy sản mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nguyễn Hằng