Thành phần mới trong khẩu phần ăn của TTCT

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – POET NexPro và ME-PRO đã được đánh giá cao trong các khẩu phần ăn hàng ngày của TTCT Thái Bình Dương. Tuy nhiên, khi kết hợp cả hai thành phần này trong khẩu phần ăn dành cho tôm còn mang lại hiệu quả mạnh mẽ hơn.

Một thử nghiệm tăng trưởng kéo dài 8 tuần đã được thực hiện để đánh giá hiệu quả của hỗn hợp protein ngô lên men NextPro và protein đậu tương lên men ME-PRO lên hiệu suất tăng trưởng của TTCT giống. Trong thử nghiệm, các chuyên gia đã sử dụng hai phụ gia này ở tỷ lệ 9 và 18% để thay thế thành phần đạm động và thực vật truyền thống trên cạn và dưới biển (LAP).

Khẩu phần đối chứng (thức ăn cơ bản) gồm 33% protein thô, 8% lipid, trong đó thành phần đạm chủ yếu từ cá, gia cầm, mực, khô đậu và lúa mỳ. Các khẩu phần thử nghiệm sử dụng NexPro 9% và 18% để thay thế đạm động vật và khô đậu.

Ba khẩu phần được phân ngẫu nhiên vào các nhóm, mỗi nhóm gồm 40 con tôm và lặp lại 6 lần trong bể nuôi 0,15 m3. Thử nghiệm 8 tuần cho thấy, hiệu suất tăng trưởng của tôm ở 2 nhóm thử nghiệm không khác biệt đáng kể so với nhóm đối chứng sử dụng hàm lượng đạm động vật cao hơn. Nghiên cứu này chứng tỏ các thành phần thử nghiệm đã cải thiện hiệu suất tăng trưởng của tôm rõ rệt khi được bổ sung ở tỷ lệ cao hơn trong thức ăn (18%).

Khẩu phần thử nghiệm

Sử dụng phần mềm để xây dựng công thức thức ăn. Toàn bộ thức ăn thử nghiệm được sản xuất bằng phương pháp ép đùn công nghiệp tại Prairie AquaTech, Mỹ. Thức ăn được đóng gói và bảo quản ở nhiệt độ phòng đến khi sử dụng. Thả viên thức ăn vào nước khoảng 20 phút trước khi sử dụng. Tính ổn định của các viên thức ăn khá đồng nhất, chứng tỏ hiệu quả của thức ăn không bị ảnh hưởng trong môi trường nước.

Thành phần hóa học của thức ăn được phân tích tại phòng thí nghiệm của bên thứ 3 (Midwest Laboratories, Omaha, NE). Các nghiệm thức có công thức isonitrogenous (33% protein thô) và isolipidic (8% chất béo thô). Khẩu phần đối chứng gồm bột cá tiêu chuẩn (6%), bột mực (3%) và bột gia cầm (4%).

Thử nghiệm sử dụng hệ thống RAS gồm 18 bể dung tích 40 gallon. Mỗi nghiệm thức được giao ngẫu nhiên vào các bể và lặp lại 6 lần. Hệ thống RAS trang bị máy lọc cơ học và sinh học, khử khuẩn UV, máy cấp nhiệt và ôxy tinh khiết.

Nhiệt độ nước mặn được duy trì 31°C. Tất cả các thông số đánh giá chất lượng nước được giữ ở mức tối ưu. Đo nồng độ ôxy hòa tan, nhiệt độ của nước, pH, độ mặn hàng ngày bằng thiết bị riêng (YSI Proplus). Đo nồng độ ammonia nitrogen, nitrite, và nitrate hàng tuần. Độ mặn của nước trong suốt 8 tuần thử nghiệm được duy trì 20,16 ± 0,77 ppt.

Tôm giống do American Mariculture (Florida) cung cấp từ tháng 10/2021. Trước thử nghiệm, toàn bộ tôm được cho ăn khẩu phần giống nhau đến khi đạt cỡ trung bình 1   g/con. Ngày đầu tiên của thử nghiệm, thả 40 tôm vào bể RAS. Sinh khối đầu (ngày 0) của 18 bể ở mức trung bình 37,84 ± 3,66 g/bể (0,25 ± 0,02 kg m3). Cho tôm ăn 3 lần/ngày đến khi no trong 8 tuần. Tính toán tốc độ tăng trưởng tương đối (RG), tăng trưởng riêng (SGR) để xác định trọng lượng đầu và cuối của mỗi cá thể tôm.

Sau 8 tuần, đếm số lượng tôm, cân cả đàn để xác định sinh khối và trọng lượng trung bình của mỗi con. Đây cũng là phương pháp tính tăng trọng và tỷ lệ sống của tôm.

Chất lượng nước không thay đổi

Chất lượng nước ổn định trong ngưỡng lý tưởng đối với TTCT. Các chỉ tiêu chất lượng nước không thay đổi đáng kể suốt quá trình thử nghiệm và không khác nhau giữa các nhóm tôm. Dữ liệu cho thấy pH trong bể đạt trung bình 8,03 và ammonia nitrogen tổng (TAN) dao động 0,13 – 0,61 mg/L suốt giai đoạn thử nghiệm. Cả pH và TAN đều ở ngưỡng thấp chứng tỏ nồng độ ammonia gây hại cũng thấp.

FCR, SGR, RG của các nhóm tôm thử nghiệm không khác biệt nhiều so nhóm đối chứng (FCR=2,04). Tuy nhiên, nhóm tôm ăn bổ sung 18% NexPro đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn và FCR thấp hơn nhóm 9% NexPro.

Các khẩu phần thử nghiệm đều phù hợp với tôm và hầu như không có thức ăn thừa trong bể sau 1 giờ 30 phút cho ăn. Tỷ lệ sống của tôm ở mỗi bể vào cuối thử nghiệm cũng đạt ngưỡng bình thường chứng tỏ thức ăn thử nghiệm không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống. Dựa trên các kết quả SGR và FCR, có thể khẳng định NexPro tác động tích cực hơn đến vật nuôi khi tăng liều lượng bổ sung. Nhìn chung, tôm ăn khẩu phần chứa 18% NexPro đạt hiệu suất tăng trưởng tốt nhất so với các nhóm khác.

Nghiên cứu này cho thấy, các khẩu phần thử nghiệm đã giảm 50% LAP (bột gia cầm) và 61% đạm động vật biển (bột cá và bột mực) để thay thế bằng hỗn hợp NexPro + ME-PRO có thể đạt hiệu quả tương tự, hoặc thậm chí tốt hơn về tăng trưởng cũng như hiệu quả sử dụng thức ăn so với nhóm đối chứng. Điều này cũng mở ra triển vọng cho các thành phần bã khô rượu (DDGS) cải tiến trong quá trình thay thế khô đậu.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia tại Prairie AquaTech, cần tiếp tục nghiên cứu thêm để tìm ra tỷ lệ bổ sung tối ưu và kết hợp NexPro với ME-PRO trong nhiều khẩu phần ăn của tôm. Điều này sẽ giúp các chuyên gia nắm cụ thể hơn về tiêu hóa và đánh giá toàn diện tình trạng sức khỏe của hệ thống ruột và gan tụy của vật nuôi.

>> Bột cá thường có hàm lượng protein từ 65 - 70% khiến việc thay thế bằng các thành phần có lượng protein thấp hơn không khả thi. Thử nghiệm trên là nền tảng để đánh giá hiệu quả của hỗn hợp NexPro và ME-PRO khi thay thế bột cá, đậu tương và phụ phẩm gia cầm. 52% protein trong NexPro kết hợp với 70% protein ME-PRO tạo ra một hỗn hợp có khả năng cạnh tranh với bột cá về hàm lượng protein.

Dũng Nguyên

Theo Aquafeed

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!