T3, 28/03/2023 09:31

Thúc đẩy phát triển kinh tế biển xanh và bền vững từ quản lý hiệu quả khu bảo tồn biển

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Ngày 24/3/2023, tại TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, Tổng cục Thuỷ sản phối hợp với Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) tại Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam (VINAFIS), Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam) và Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Xanh (Greenhub) tổ chức hội thảo “Quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế biển xanh và bền vững ở Việt Nam”.

Mục đích của hội thảo là thảo luận và lấy ý kiến đóng góp về: Một số quy định pháp luật và chính sách liên quan đến thành lập và quản lý khu bảo tồn biển (KBTB), đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản; bàn giải pháp quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển; dự thảo Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2012 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (nội dung liên quan đến bảo tồn biển); và dự thảo Đề án mở rộng, thành lập mới các KBTB, phục hồi các hệ sinh thái biển nhằm đạt mục tiêu 3% diện tích vùng biển Việt nam đến 2025 và 6% đến năm 2030. 

Theo Báo cáo của Vụ Bảo tồn và Phát triển nguồn lợi (Tổng cục Thủy sản), hiện nay, cả nước đã thành lập và đưa vào hoạt động 9 khu vực biển được khoanh vùng quản lý trong hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm: 5 KBTB: Bạch Long Vĩ/Hải Phòng, Cồn Cỏ/Quảng Trị, Lý Sơn/Quảng Ngãi, Hòn Cau/Bình Thuận; Phú Quốc/Kiên Giang; 4 khu vực biển thuộc Vườn quốc gia (VQG) trong hệ thống rừng đặc dụng: Bái Tử Long/Quảng Ninh, Cát Bà/Hải Phòng, Núi Chúa/Ninh Thuận, Côn Đảo/Bà Rịa – Vũng Tàu; 5 KBTB đã được quy hoạch chi tiết nhưng chưa được thành lập: Cô Tô, Đảo Trần/Quảng Ninh; Hòn Mê/Thanh Hóa; Nam Yết/Khánh Hòa; Phú Quý/Bình Thuận; Hải Vân – Sơn Trà/Đà Nẵng – Thừa Thiên Huế; 2 vùng biển đã được quản lý nhưng chưa thành lập KBTB:Cù Lao Chàm/Quảng Nam; Vịnh Nha Trang/Khánh Hòa; 15 khu vực tiềm năng đáp ứng các tiêu chí thành lập KBTB.

Hội thảo là cơ hội để đại diện các KBTB/VQG trên cả nước có cơ hội gặp gỡ, trao đổi chia sẻ thông tin kinh nghiệm và hợp tác, đồng thời đóng góp ý kiến cho các quy định và đề án nói trên. Sự tham gia của mạng lưới KBTB/VQG trong quá trình tham vấn sẽ giúp cho cơ quan quản lý có thêm những đóng góp từ kinh nghiệm thực tiễn, góp phần thúc đẩy hiệu quả quản lý mạng lưới các KBTB/VQG tại Việt Nam. Quản lý hiệu quả mạng lưới các KBTB là một phần không thể tách rời khi đầu tư vào kinh tế biển xanh song song với đầu tư cho nguồn vốn thiên nhiên và cho các hệ sinh thái. Đồng thời, cần tiến hành các hoạt động kiểm kê, đánh giá các “nguồn vốn tự nhiên biển, đảo” và các hoạt động quy hoạch không gian biển dựa vào hệ sinh thái để tối ưu hóa lợi ích, giảm thiểu xung đột trong khai thác, sử dụng biển.

Theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, PCT Hội Nghề cá Việt Nam, các hệ sinh thái biển, ven biển đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học, cung cấp nguồn lợi hải sản, điều hòa thời tiết khí hậu và là “cơ sở hạ tầng” tự nhiên chống đỡ thiên tai và biến đổi khí hậu. Đặc biệt, các hệ sinh thái này đã tạo tiềm năng bảo tồn thiên nhiên biển rất to lớn và cung cấp các dịch vụ quan trọng để phát triển các ngành, nghề kinh tế biển theo hướng bền vững như nghề cá, nuôi trồng, du lịch biển… 

Hệ thống các KBTB được thành lập không chỉ góp phần bảo đảm cân bằng sinh thái vùng biển, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo đảm chức năng điều hoà môi trường, cung cấp nguồn giống và nguồn lợi hải sản mà còn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế ở địa phương lâu dài. Việc thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống các KBTB không chỉ nhằm bảo toàn tính bền vững của các vùng biển, nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế biển xanh dựa vào các nguồn lực tự nhiên mà còn có ý nghĩa pháp lý to lớn, góp thêm cơ sở và cung cấp các công cụ hành chính và pháp luật trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích của nước ta ở Biển Đông phù hợp luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 1982. Việc mở rộng diện tích các KBTB trở thành nội dung quan trọng của kinh tế biển xanh. 

Kinh tế biển xanh hiện đã được hầu hết các quốc gia công nhận là giải pháp phát triển bền vững biển và dần đưa thành yêu cầu bắt buộc trong chiến lược, chính sách phát triển. Ảnh: TTXVN

Là chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn biển, bà Bùi Thị Thu Hiền, đại diện IUCN chia sẻ: KBTB là công cụ hữu hiệu trong việc bảo vệ nguồn lợi do tác động của hoạt động khai thác, phục hồi sức khỏe các hệ sinh thái biển, cải thiện sinh kế cộng đồng người dân địa phương, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Vai trò và trách nhiệm của các KBTB/VQG có biển khá nhiều: Bảo vệ đa dạng sinh học của khu vực được bảo vệ; Ngăn chặn các vi phạm trong KBTB/VQG; Bảo vệ rừng vàng, biển bạc. Chưa hết, với nhiệm vụ mới gần đây liên quan đến ô nhiễm rác thải nhựa đại dương, Quyết định 1746/QĐ-CP về “Kế hoạch Hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030” do Thủ tướng Chính phủ ban hành vào tháng 12/2019. Theo đó, đến năm 2025, 80% các KBTB không còn rác thải nhựa và đến năm 2030, 100% các KBTB không còn rác thải nhựa. 

Quyết định 687 ngày 5/2/2021 của Bộ NN&PTNT về “Kế hoạch quản lý rác thải nhựa đại dương giai đoạn 2021 – 2030”. Trong đó đã xác định đến năm 2025, 100% các KBTB xây dựng kế hoạch giám sát và tổ chức thu gom, phân loại rác thải nhựa. Trách nhiệm của các KBTB/VQG là rất nặng nề, chưa kể nhiều KBTB/VQG có những vị trí rất đẹp và có những giá trị thiên nhiên và chịu nhiều sức ép từ các hoạt động kinh tế xã hội, nhiều doanh nghiệp du lịch quan tâm và muốn sở hữu và quản lý những khu vực này. Nhiệm vụ của các BQL của các KBTB/VQG là đang bảo vệ và xây dựng những giá trị lợi ích về kinh tế, môi trường cho các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng ở các khu vực gần, và xung quanh KBTB/VQG, do vậy các doanh nghiệp nên đồng hành, hỗ trợ và cùng bảo vệ những diện tích của KBTB.

Có mặt tại Hội thảo, TS. Võ Sĩ Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Hải Dương học Nha Trang, chia sẻ để làm tốt vấn đề bảo tồn biển cần tăng cường vai trò của chính quyền địa phương. Địa phương phải có cơ chế, hỗ trợ, phối hợp, chia sẻ thông tin với các KBTB; cần xây dựng hệ thống bảo tồn biển khác nhau ở các cách thức khác nhau; xã hội hóa công tác bảo tồn nhằm tạo nguồn tài chính bền vững cho các KBTB hoạt động.

Ý kiến của đại diện các KBTB và VQG, rất cần được hỗ trợ cả về tài chính lẫn kỹ thuật, nâng cao năng lực để có thể thực hiện được các nhiệm vụ được giao cũng như có thể chủ động hơn trong công tác bảo tồn; tạo điều kiện cho sinh kế của cộng đồng sống trong và xung quanh các KBTB và đa dạng hóa các nguồn tài chính tại các KBTB.

Ông Lê Trần Nguyên Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ Bảo tồn và Phát triển nguồn lợi, Tổng cục Thủy sản cho biết, trong thời gian tới về phía Trung ương sẽ tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý KBTB; xây dựng cơ chế, chính sách phục vụ công tác quản lý và phát triển bền vững, hiệu quả hệ thống KBTB; củng cố, kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức của các BQL KBTB theo hướng thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; nâng cao hiệu quả chỉ đạo, phối hợp thực hiện giữa các cơ quan Trung ương với địa phương về công tác quản lý bảo tồn biển; xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách/dự án chuyển đổi nghề, tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư sống trong và xung quanh khu bảo tồn biển và khu bảo tồn đất ngập nước ven biển, cộng đồng ngư dân khai thác thuỷ sản tại vùng ven bờ; điều chỉnh cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản phù hợp với nguồn lợi, ngư trường, giảm áp lực khai thác thủy sản ở vùng ven bờ; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư cho các hoạt động bảo tồn biển, phục hồi hệ sinh thái biển; chính sách cho cộng đồng cư dân tham gia quản lý KBTB được hưởng lợi từ dịch vụ bảo vệ môi trường biển.

Ái Trinh

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!