(TSVN) – Bên cạnh những lợi ích mà mô hình nuôi tôm 2 hoặc 3 giai đoạn mang lại, mô hình này hiện tồn tại một số hạn chế nhất định. Người nuôi tôm tùy theo khả năng về nguồn lực, trình độ kỹ thuật, địa điểm canh tác và chất lượng môi trường nền đáy, nước mà cân nhắc, lựa chọn mô hình nuôi phù hợp.
Mô hình nuôi tôm 2 hoặc 3 giai đoạn là phương thức nuôi tôm theo từng giai đoạn phát triển khác nhau trong môi trường nuôi riêng biệt, nhằm giúp làm mới nền đáy, cải thiện chất lượng môi trường nước ao nuôi, giảm thiểu rủi ro và giảm dịch bệnh.
Mô hình nuôi phân đoạn thường được áp dụng trong ao đáy đất, dễ bị ô nhiễm nền đáy trong chu kỳ nuôi dài ngày do tích tụ nhiều bùn thải. Đây là mô hình nuôi tôm áp dụng chủ yếu trong nuôi tôm sú (Penaeus monodon) và tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Các giai đoạn cơ bản của mô hình là:
Giai đoạn 1 (giống tôm được ương từ 10 – 20 ngày): Tôm giống được ương trong ao ương có diện tích nhỏ với mật độ cao (từ 1.000 đến 3.000 con/m³). Môi trường trong giai đoạn này được kiểm soát để giúp tôm phát triển ổn định, khỏe mạnh trước khi chuyển sang giai đoạn 2.
Giai đoạn 2 (Ương giống lớn: 20 – 30 ngày): Tôm được chuyển sang ao ương nuôi trung gian có diện tích lớn hơn (thường từ 2.000 con/m² đến 5.000 con/m²). Mật độ ương nuôi giảm xuống còn khoảng 500 – 1.000 con/m².
Giai đoạn 3 (Nuôi thương phẩm: 60 – 90 ngày): Tôm được chuyển sang ao nuôi lớn với mật độ thấp hơn (thường khoảng 50 – 120 con/m²) tùy theo cơ sở hạ tầng, mức nước và nguồn lực của người nuôi. Trong giai đoạn này, ao nuôi có thể là ao đất hoặc ao lót bạt, và môi trường được kiểm soát để đảm bảo sự phát triển tối ưu của tôm. Khi tôm đạt kích thước thương phẩm (thường từ 20 – 30 g/con), thì thu hoạch.
Lợi ích của mô hình nuôi 2 hoặc 3 giai đoạn là:
– Khi tôm được chuyển sang ao nuôi mới với nền đáy sạch, chất lượng môi trường tốt, tôm phát triển nhanh và giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh và ô nhiễm môi trường.
– Nếu được chuyển ao, quản lý ao nuôi qua từng giai đoạn khoa học thì tôm sẽ phát triển nhanh và ít bị phân đàn (kích thước cá thể đều hơn).
– Khi chia nhỏ quá trình nuôi, người nuôi dễ chăm sóc, có thể can thiệp kịp thời nếu xảy ra sự cố, giảm thiểu chi phí thuốc và xử lý môi trường.
Tuy vậy, nuôi tôm 2 hoặc 3 giai đoạn có nhiều bất cập:
– Mỗi lần chuyển tôm sang môi trường mới tôm có thể bị tổn thương cũng như “stress”, và mất thời gian để làm quen với môi trường mới dẫn đến chậm lớn và có thể làm tăng mức hao hụt. Đặc biệt tôm he chân trắng với lớp vỏ mỏng dễ bị tổn thương khi chuyển ao nuôi.
– Nuôi tôm chia 2 và 3 giai đoạn đòi hỏi đầu tư nhiều ao và thiết bị, dụng cụ sẽ làm tăng chi phí cải tạo các ao ương, cải tạo ao nuôi và chi phí công lao động…
– Quy trình nuôi phức tạp đòi hỏi người nuôi phải được đào tạo kiến thức và kỹ năng quản lý từng giai đoạn khác nhau, nếu không có thể gặp rủi ro cao hơn.
Vào những năm 1980, để giảm thiểu ô nhiễm đáy ao trong chu kỳ nuôi dài ngày, tại Philippines và một số nước trong khu vực, người nuôi tôm đã áp dụng phương thức nuôi chuyển ao (Transfer pond system). Giai đoạn đầu tôm được nuôi trong ao có mật độ cao (ao ương, nuôi), sau 30 hoặc đến 50 ngày tôm được chuyển sang các ao nuôi với mật độ thấp hơn (kết cấu ao theo dạng bậc thang). Và ao ương lại được cải tạo đáy để ương nuôi cho chu kỳ tiếp theo. Với phương thức nuôi chuyển như vậy người nuôi tôm khắc phục được ô nhiễm nền đáy trong mỗi chu kỳ nuôi (3,5 – 4 tháng).
Ở Việt Nam, những năm 1990, nhu cầu cung cấp tôm giống lớn (2 – 3 cm) ở các tỉnh phía Bắc tăng cao, nên người dân đã mua tôm giống PL10 về ương đến giai đoạn giống lớn (2 – 3 cm) để chuyển nuôi và cung cấp dịch vụ cho người dân trong vùng.
Thực tế, giống tôm xuất bán từ các cơ sơ sản xuất giống ra thị trường thường ở giai đoạn PL10-12; và độ mặn ở trại sản xuất giống cao. Độ mặn giữa ao nuôi thương phẩm và trại giống thường có mức có mức chênh lệch về độ mặn từ 10 – 15 ‰. Do vậy, khi chuyển giống từ trại giống ra cơ sở nuôi, người nuôi cần tiếp tục ương trong bể từ PL10 đến PL20-25 với mục địch: Tôm làm quen với môi trường mới và giảm dần độ mặn (S ‰). Sau đó tôm được chuyển sang ao ương, ương tiếp 20 đến 30 ngày thành tôm giống lớn, từ đó chuyển ra ao nuôi thương phẩm hoặc dịch vụ con giống cho người nuôi trong vùng.
Trên cơ sở những kết quả thực nghiệm và tổng kết những tiến bộ kỹ thuật trong thực tế sản xuất, Trạm Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ, thuộc Viên Nghiên cứu Hải sản (nay là Viện Nghiên cứu NTTS I), từ năm 1996 đã hoàn thiện và biên soạn giáo trình “Kỹ thuật ương giống lớn” để phổ biến nhân rộng cho người dân trong vùng.
Phương thức canh tác như vậy đã tồn tại từ nhiều năm và được người dân ở các tỉnh ven biển hiện vẫn đang áp dụng và phát triển để thả nuôi theo mô hình nuôi tôm thân thiện rừng ngập mặn và đầm trong rong câu…
Năm 1998, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu độc lập cấp nhà nước, Trạm NCTS nước lợ đã thực hiện nhiệm vụ “Áp dụng và hoàn thiện mô hình nuôi tôm ít thay nước” của Thái Lan, do Bộ Khoa học công nghệ giao trực tiếp. Trong đó, hai trong những nội dung đã được nghiên cứu hoàn thiện là:
– Hoàn thiện quy trình “Ương và thuần hóa giống”: Giống tôm PL10-12 chuyển ra Bắc từ các trại giống ở phía Nam được tiếp tục ương trong bể từ PL10 đến PL20-25.
– Hoàn thiện quy trình “Ương giống trực tiếp tại ao nuôi”: Ao nuôi được cải tạo, cấp nước ở mức là 70 – 80 cm/150 cm. Ao được gây màu nước (gây nuôi thức ăn tự nhiên), sau đó chuyển trực tiếp tôm giống từ bể ương ra ao nuôi. Ở mức nước thấy, người nuôi dễ chăm sóc và tận dung được nguồn thức ăn tự nhiên. Ao nuôi được bổ sung nước hàng tuần để đạt đến độ sâu theo yêu cầu trong khoảng 30 ngày sau thả giống.
Năm 2000 – 2003, trong quá trình thực hiện đề tài cấp nhà nước “KC,07,01”, một lần nữa mô hình nuôi tôm ít thay nước được áp dụng và hoàn thiện, với ao nuôi đáy được cứng hóa hoặc lót bạt, có hệ thống thu gom bùn thải; bổ sung chế phẩm sinh học theo định kỳ và duy trì sự phát triển ổn định của vi tảo. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được phổ biến nhân rộng. Với phương thức canh tác trên người nuôi tôm có thể khắc phục được sự ô nhiễm nền đáy sau một chu kỳ nuôi dài (105 – 120 ngày).
Tóm lại, để kiểm soát chất lượng môi trường nước, đáy ao nuôi, hiện có nhiều giải pháp kỹ thuật khác nhau đang được áp dụng cho nuôi tôm có hiệu quả. Trong đó, “Mô hình nuôi tôm ít thay nước” với cơ sở hạ tầng, hệ thống trang thiết bị và dụng cụ hoàn thiện và áp dụng kỹ thuật “Ương giống trực tiếp trong ao nuôi” đã trở thành mô hình nuôi mang tính truyền thống, hiệu quả và dễ áp dụng.
Do vậy, người nuôi tôm thông minh tùy theo khả năng về nguồn lực, trình độ kỹ thuật, địa điểm canh tác và chất lượng môi trường nước mà cân nhắc, lựa chọn mô hình nuôi phù hợp để có hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Anh Vũ