Vững vàng vị thế Việt Nam

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam đó là sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta giành được chính quyền trên phạm vi cả nước, chấm dứt chế độ thực dân phong kiến kéo dài hàng thế kỷ, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Vượt qua thác ghềnh của lịch sử

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh đầy cam go, thách thức. Chính quyền cách mạng còn non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn, hiểm nguy, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài đan xen. Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, sáng suốt, kiên định của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện” kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược và kết thúc bằng Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Tác phẩm tranh bằng bột màu “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn” của tác giả Nguyễn Dương

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Geneva (ngày 21-7-1954). Mặc dù Hội nghị Geneva đã thừa nhận về nguyên tắc sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, tuy nhiên, với ý đồ can thiệp và xâm lược, Mỹ đã không ký tuyên bố cuối cùng của hội nghị và nhảy vào miền Nam Việt Nam thay chân thực dân Pháp, xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới với chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam – Bắc với đường giới tuyến quân sự là vĩ tuyến 17.

Từ đây, cùng một lúc, dân tộc ta phải tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, còn ở miền Nam tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, trọng tâm là đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mặc dù gặp vô vàn khó khăn, gian khổ, chịu nhiều mất mát, hy sinh, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam lại vượt lên, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Ở miền Bắc, quân và dân ta đã hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, quân và dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Tổ quốc thống nhất nhưng đất nước ta bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị bao vây, cấm vận, tiếp đến là hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp, dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn chồng chất. Song, với lý tưởng anh hùng cách mạng, sức mạnh của cả dân tộc, nhân dân ta đã bắt tay ngay vào khôi phục nền kinh tế, xã hội sau chiến tranh. Từ những thử nghiệm từng bước trong thực tiễn, Đảng đã đề ra và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986.

Bằng đường lối đổi mới được Đảng đề ra từ Đại hội VI (tháng 12/1986) và được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội tiếp theo, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Mặc dù tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng Việt Nam vẫn giữ vững ổn định chính trị, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

Vững vàng vị thế Việt Nam

Vị thế của đất nước, sau 80 năm, từ chỗ nghèo nàn, lạc hậu đến một đất nước có nền kinh tế được đánh giá là điểm sáng của thế giới; chính trị – xã hội ổn định, môi trường đầu tư hấp dẫn, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả ấn tượng, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh qua các giai đoạn. Đến nay, Việt Nam không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn khoảng 1,9%. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ được đẩy mạnh, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Giáo dục và y tế được quan tâm đầu tư; chất lượng giáo dục được nâng cao; mạng lưới y tế được mở rộng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người dân. Các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới.

Thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển đa dạng các ngành kinh tế, Việt Nam đã vươn lên thành nền kinh tế có quy mô GDP xếp thứ 4 Đông Nam Á, đứng thứ 33 thế giới, sẵn sàng bước vào giai đoạn phát triển mới, hiện thực hóa quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta về việc xây dựng Việt Nam trở thành một nước phát triển, thu nhập cao.

Kiên định với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới. Trong đó, có 11 nước được xác định là đối tác chiến lược toàn diện, 10 nước là đối tác chiến lược và 13 nước là đối tác toàn diện. Việt Nam cũng là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng. Đặc biệt, Việt Nam đã trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc các nhiệm kỳ 2014-2016 và 2023-2025. Không chỉ khẳng định là quốc gia có chủ quyền, mà Việt Nam còn là nước có tiếng nói và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.

Mặc dù bối cảnh thế giới có những biến động phức tạp và đa chiều, tác động sâu sắc đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nhưng Việt Nam đã bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sự ổn định chính trị tạo ra một môi trường thuận lợi để Việt Nam phát triển kinh tế, xã hội, thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và nâng cao đời sống nhân dân.

Hướng tới tương lai

Ngày nay, Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của giai đoạn phát triển mới, mang tính quyết định tới sự thành công của nỗ lực vượt qua bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập cao.

Chúng ta bước vào giai đoạn phát triển mới với rất nhiều khó khăn, thách thức, khi các mô hình phát triển cũ đang trở nên trì trệ, kém hiệu quả. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm biến đổi nhanh chóng mọi mặt của kinh tế – xã hội. Chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy tạo ra nhiều thách thức với nỗ lực hợp tác kinh tế quốc tế. Nền kinh tế thế giới trở nên dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết bởi sự đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu do hậu quả của dịch bệnh, thiên tai, căng thẳng thương mại và xung đột quân sự…

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực, có trách nhiệm trong nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm... Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ... ”.

Trước thời cơ, thách thức đan xen, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định tìm mọi cách để tận dụng những thuận lợi, biến thách thức thành cơ hội phát triển. Đảng đã ban hành “bộ tứ nghị quyết trụ cột” để đưa đất nước phát triển bứt phá, vững vàng bước vào giai đoạn phát triển mới và “bộ tứ nghị quyết trụ cột” này đã nhanh chóng được Quốc hội thể chế hóa để Chính phủ khẩn trương triển khai thực hiện.

Những chính sách mới bước đầu đang phát huy hiệu quả tích cực với việc tăng trưởng GDP quý II-2025 đạt mức cao nhất so với cùng kỳ suốt gần 20 năm qua (đạt 7,67%), tạo tiền đề quan trọng để hướng tới mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm nay và tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo.

Những thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực của Việt Nam sau 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước và sự nỗ lực của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chúng ta không “ngủ quên trên chiến thắng” mà chủ động nhận diện rõ mọi khó khăn, thách thức, biến khó khăn, thách thức thành cơ hội để phát triển. Điều đó tạo niềm tin rất lớn về một tương lai phát triển đầy xán lạn cho nền kinh tế nước nhà.

Đông Phong

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!