Sản xuất thuận thiên: Hướng đi bền vững trước biến đổi khí hậu

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Việc thích ứng, hòa hợp với tự nhiên thay vì chống lại trở thành con đường tất yếu để bảo đảm sinh kế cho hàng triệu nông, ngư dân và duy trì tăng trưởng dài hạn cho ngành thủy sản.

Thách thức lớn đối với sản xuất thủy sản

Nhiều tổ chức quốc tế đều có chung nhận định, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nhất của biến đổi khí hậu. Nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả, nhiệt độ tăng 1,0°C và 1,5°C có thể gây tổn thất lần lượt khoảng 1,8% GDP và 4,5% GDP; thiệt hại kinh tế khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới. Nếu nước biển dâng và nhiệt độ tăng lên theo kịch bản xấu nhất, ước tính đến năm 2050, Việt Nam có khoảng 3,1 triệu người phải di cư nội địa. Trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực chịu tổn thất lớn nhất, tiếp đến là đồng bằng sông Hồng.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, ngành thủy sản Việt Nam, đặc biệt ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đang chịu những tác động nặng nề. Sự gia tăng nhiệt độ, xâm nhập mặn, nước biển dâng, hạn hán và mưa lũ cực đoan đã làm thay đổi mạnh mẽ môi trường sinh thái vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Hệ quả là nhiều vùng nuôi trồng bị thu hẹp, năng suất giảm, dịch bệnh bùng phát, và nguồn lợi thủy sản tự nhiên suy giảm nghiêm trọng. Các chuyên gia ước tính sẽ có khoảng 1,1 triệu tấn thủy sản nuôi trồng, tương đương 935 triệu USD có nguy cơ bị tổn thất do lũ lụt hàng năm.

Không chỉ ảnh hưởng đến năng suất, biến đổi khí hậu còn làm gia tăng chi phí đầu tư cho hạ tầng nuôi trồng, buộc người dân phải thay đổi cách thức sản xuất. Các mô hình canh tác truyền thống vốn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên không còn phù hợp, trong khi yêu cầu của thị trường quốc tế ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc, sản xuất xanh, bền vững.

Thời của những mô hình thuận thiên

Mô hình nuôi cá đồng trong mùa lũ ở An Giang do Hội Nông dân xã An Cư (tỉnh An Giang) phối hợp Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) triển khai được kỳ vọng sẽ mở ra hướng đi mới, giúp nông dân tăng thu nhập, bảo tồn đa dạng sinh học trên vùng xả lũ hằng năm.

Như vậy, thay vì bỏ hoang đất canh tác khi ngập nước, nông dân dựng đăng quầng, kết hợp trồng sen, thả nuôi các loài cá bản địa như cá lóc, cá trê, đồng thời dẫn dụ cá tự nhiên vào khu vực nuôi. Mô hình này giúp người dân có thêm thu nhập từ đất ngập nước, giảm khai thác cá tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và cải thiện chất lượng đất cho vụ lúa sau lũ. Theo đánh giá của các chuyên gia, đây là mô hình sinh thái bền vững, vừa đảm bảo lợi ích kinh tế, vừa duy trì cân bằng tự nhiên, đúng nghĩa “thuận thiên”.

Còn ở vùng đất ngập mặn ven biển, điển hình như Cà Mau, mô hình luân canh lúa – tôm đã chứng minh hiệu quả vượt trội. Vào mùa khô, người dân nuôi tôm sú, tôm càng xanh; đến mùa mưa, họ rửa mặn đồng để trồng lúa. Chu kỳ canh tác này giúp cắt mầm bệnh, tái tạo đất, giảm chi phí vật tư, đồng thời tận dụng chất thải của tôm làm phân bón tự nhiên cho lúa.

Theo đuổi mô hình này, nhiều Hợp tác xã lúa – tôm như Trí Lực đã được cấp chứng nhận hữu cơ quốc tế ASC Group. Nông dân có thu nhập cao hơn mức trung bình 150 triệu đồng/ha/năm nhờ sản phẩm được doanh nghiệp bao tiêu với giá cao. Ở tỉnh Bạc Liêu (cũ), diện tích lúa – tôm đạt trên 15.000 ha, năng suất lúa 8 – 10 tấn/ha, tôm 250 – 300 kg/ha, cho thấy tính hiệu quả và bền vững của mô hình này.

Một mô hình khác mang đậm dấu ấn “thuận thiên” là nuôi tôm dưới tán rừng ngập mặn. Mô hình này phát triển rất tốt tại tỉnh Cà Mau. Người dân tận dụng không gian sinh thái tự nhiên để nuôi tôm, cua, sò, hạn chế tối đa thức ăn công nghiệp và hóa chất.

Nhiều doanh nghiệp lớn như Minh Phú, Camimex, CASES đã liên kết với các hộ dân để phát triển chuỗi tôm – rừng đạt các chứng nhận quốc tế như EU Organic, Naturland, ASC, BAP. Hiện toàn tỉnh Cà Mau (cũ) có khoảng 39.500 ha diện tích tôm – rừng, góp phần bảo vệ rừng, giảm phát thải carbon và duy trì đa dạng sinh học.

Ngoài ra, tỉnh Cà Mau đang thí điểm mô hình nuôi tôm siêu thâm canh không xả thải và tôm quảng canh hai giai đoạn giảm phát thải carbon, hướng đến sản xuất xanh, thích ứng với khí hậu và đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu cao cấp.

Không chỉ ở ĐBSCL, nhiều địa phương miền Trung và miền Bắc cũng đang phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản kết hợp bảo tồn sinh thái. Ở Quảng Ninh, người dân nuôi nhuyễn thể dưới tán rừng ngập mặn ven biển; tại Nghệ An và Hà Tĩnh, mô hình nuôi cá lồng trên hồ chứa gắn với trồng rừng phòng hộ cũng mang lại hiệu quả kinh tế và môi trường rõ rệt.
Những mô hình này minh chứng cho xu hướng chuyển đổi từ sản xuất khai thác sang sản xuất dựa vào tự nhiên, thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu và hướng tới nền nông nghiệp sinh thái.

Tỉnh Cà Mau đang tiên phong thực hiện kế hoạch phát triển ngành tôm giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, hướng tới kim ngạch xuất khẩu 1,65 tỷ USD vào năm 2030 và 6 tỷ USD vào năm 2050. Mục tiêu của kế hoạch là xây dựng chuỗi giá trị thủy sản xanh, carbon thấp, thích ứng biến đổi khí hậu, phù hợp với cam kết giảm phát thải của Việt Nam theo Thỏa thuận Paris.

Cần thêm những giải pháp thích ứng

Dù mang lại nhiều lợi ích, các mô hình thủy sản thuận thiên vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn. Trước hết, đó là do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún khiến việc cơ giới hóa, áp dụng công nghệ cao và truy xuất nguồn gốc gặp trở ngại. Cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa đồng bộ; thiếu quy hoạch tổng thể, dẫn tới chất lượng sản phẩm không ổn định. Biến đổi khí hậu tiếp tục gây ra những thiên tai bất thường như hạn hán, xâm nhập mặn, bão lũ, làm gia tăng rủi ro cho người nuôi.

Ngoài ra, sự thiếu hụt lao động có tay nghề, vốn đầu tư hạn chế, cùng với việc liên kết giữa người dân và doanh nghiệp chưa chặt chẽ khiến nhiều mô hình chưa thể mở rộng quy mô.

Theo các chuyên gia, để hướng sản xuất thuận thiên thực sự phát huy hiệu quả, cần có cơ chế chính sách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Đầu tiên, cần đẩy mạnh quy hoạch vùng nuôi thích ứng khí hậu, đảm bảo hài hòa giữa sản xuất và bảo tồn sinh thái. Các địa phương cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ (ban hành năm 2017) về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, lấy “thuận thiên” làm triết lý chủ đạo.

Song song với đó, tăng cường đầu tư hạ tầng (thủy lợi, điện, giao thông nội đồng, hệ thống cấp thoát nước) để hỗ trợ nông dân chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh. Ngoài ra, Nhà nước cần có thêm chính sách tín dụng ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào vùng nuôi, tham gia chuỗi giá trị và bao tiêu sản phẩm.

Về khoa học – công nghệ, cần đẩy mạnh nghiên cứu mô hình nuôi trồng giảm phát thải, ít rủi ro, nhân rộng các quy trình sản xuất hữu cơ, sinh thái. Công tác đào tạo, tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế cho nông dân cũng là yếu tố quyết định để nâng cao giá trị xuất khẩu.

Từ những mô hình thành công ở An Giang, Cà Mau… có thể thấy “thuận thiên” không chỉ là khẩu hiệu mà là hướng đi tất yếu của ngành thủy sản Việt Nam. Đó là cách tiếp cận thông minh, hài hòa giữa kinh tế và môi trường, giữa con người và tự nhiên. Khi người dân chủ động thích ứng, doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, và Nhà nước có chính sách hỗ trợ đồng bộ, sản xuất thuận thiên sẽ trở thành nền tảng cho một ngành thủy sản bền vững trước biến đổi khí hậu và hội nhập toàn cầu.

Bảo Hân

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!