(TSVN) – Biến đổi khí hậu đang khiến nghề nuôi biển truyền thống đối mặt với nhiều rủi ro. Việc người nuôi chuyển từ lồng gỗ ven bờ sang công nghệ nuôi hiện đại, quản lý bằng dữ liệu và vật liệu chịu bão đang mở ra cơ hội phát triển bền vững cho khu vực Nam Trung Bộ.
Dải bờ biển Nam Trung Bộ từng là “thủ phủ” lồng bè gỗ, san sát từ vịnh Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh cho đến các đầm, vịnh ở Đắk Lắk hay Gia Lai. Lồng gỗ rẻ, dễ đóng, phù hợp sản xuất nhỏ lẻ nên hàng nghìn hộ dân gắn bó suốt nhiều thế hệ.
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đã khiến mọi thứ thay đổi. Bão mạnh xuất hiện dày hơn, sóng lớn kéo dài đến tận tháng 11–12, nhiệt độ nước biển bất thường khiến cá yếu, dịch bệnh bùng phát. Chỉ trong vài giờ, một trận gió lớn có thể đánh sập cả hệ thống lồng gỗ, cuốn theo toàn bộ vốn liếng của người nuôi.
Khánh Hòa vốn được biết đến là “thủ phủ nuôi biển” của cả nước, cũng không tránh khỏi vòng xoáy ấy. Sản lượng thủy sản nuôi của tỉnh đạt hơn 32.000 tấn mỗi năm, trong đó khoảng 50% đến từ nuôi lồng bè trên biển. Nhưng kèm theo đó là nỗi lo thường trực: trời yên thì thu nhập cao, biển động thì rủi ro mất trắng.
Trong bối cảnh đó, những năm gần đây, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với các doanh nghiệp, địa phương cùng người dân liên tục triển khai các mô hình nuôi biển công nghệ cao tại Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Gia Lai, Quảng Ninh… Nòng cốt của các mô hình không chỉ là lồng nuôi bằng vật liệu HDPE chịu sóng lớn, chống ăn mòn, tuổi thọ 30–50 năm mà còn thay đổi toàn bộ quy trình sản xuất như: máy cho ăn tự động, camera quan sát dưới nước, thiết bị đo chất lượng nước theo thời gian thực.
Ở Khánh Hòa, từ nguồn kinh phí khuyến nông Trung ương và tỉnh, 38 ô lồng HDPE vuông và 8 lồng tròn đường kính 10–13 m đã được hạ thủy cho các hộ dân tại vịnh Nha Trang, Cam Ranh. Điều đáng mừng không nằm trên giấy tờ, mà nằm ở những con số người dân nhìn thấy hàng ngày: năng suất trung bình tăng lên 10–15 kg/m³ (so với 8–10 kg/m³ ở lồng gỗ), tỷ lệ cá hao hụt giảm mạnh, dịch bệnh hạn chế, chi phí thức ăn tiết kiệm do máy tự động điều chỉnh khẩu phần.
Nhưng điều thuyết phục nhất lại là khả năng chống chịu sóng gió. Những mùa bão gần đây, lồng HDPE vẫn đứng vững trong khi hàng chục lồng gỗ xung quanh bị sóng giật hỏng.
Phát biểu tại Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp phát triển nuôi biển thích ứng với biến đổi khí hậu tại các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ” tổ chức mới đây tại Khánh Hòa, ông Hoàng Văn Hồng – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chia sẻ: “Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, gây ra những tác động sâu rộng đến sinh kế và sản xuất, việc tìm kiếm những giải pháp bền vững cho phát triển kinh tế biển không còn là sự lựa chọn, mà đã trở thành một yêu cầu cấp thiết”.
Sau hơn một năm thí điểm, số hộ dân tự bỏ vốn mua lồng HDPE ngày càng nhiều. Đến nay, tại Khánh Hòa đã có 27 hộ đầu tư thêm 50 lồng tròn và 12 lồng vuông, hình thành những cụm nuôi công nghiệp đầu tiên trên biển.
Chương trình khuyến nông không chỉ dừng ở việc hướng dẫn người dân nuôi cá. Hệ thống khuyến nông trở thành cầu nối giữa nhiều phía: viện nghiên cứu – doanh nghiệp – hộ dân – cơ quan quản lý. Nhờ các mô hình thí điểm, nhiều doanh nghiệp chế biến đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm, vì cá nuôi bằng quy trình công nghệ cao dễ truy xuất nguồn gốc, kiểm soát kháng sinh, phù hợp thị trường xuất khẩu. Người nuôi không còn phụ thuộc thương lái; chuỗi giá trị bắt đầu hình thành từ lồng nuôi đến nhà máy.
Từ những số liệu khảo sát thực tế, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tham mưu đề xuất chính sách hỗ trợ người dân chuyển đổi lồng bè truyền thống sang lồng vật liệu mới; khuyến nghị bảo hiểm nuôi biển, tín dụng ưu đãi, tiêu chuẩn kỹ thuật vùng nuôi, cấp mã số vùng nuôi.
Một trong những điểm mới của khuyến nông là phương pháp “cầm tay chỉ việc”. Không còn những lớp tập huấn lý thuyết nặng nề, cán bộ khuyến nông xuống tận bè, dạy cách vận hành máy cho ăn, cách lặn kiểm tra neo, cách đọc dữ liệu môi trường. Người dân dùng điện thoại xem cảm biến chất lượng nước, điều chỉnh lượng thức ăn, nhận cảnh báo khi ôxy giảm. Từ chỗ nuôi bằng kinh nghiệm, họ bắt đầu nuôi bằng dữ liệu.
Ông Vũ Khắc Mười, một ngư dân tiên phong thí điểm nuôi biển công nghệ cao ở khu vực Đầm Bấy (phường Nha Trang) chia sẻ: “Lồng gỗ trước đây chỉ cần bão cấp 7 là lo ngay ngáy. Còn lồng HDPE chịu được bão cấp 12. Mình không còn sống chung với nỗi sợ nữa”. Hiện ông đang nuôi cá chim vây vàng và cá bớp trên diện tích 1.000m² mặt nước, dự kiến sản lượng 30 tấn/năm. Kinh nghiệm của ông đã lan rộng, trở thành ví dụ điển hình cho nhiều hộ nuôi khác thực hiện.
Theo đại diện Cục Thủy sản và Kiểm ngư, muốn “đánh thức” tiềm năng biển, trước hết phải làm tốt quy hoạch và quản lý không gian biển. Các vùng nuôi cần được bố trí mặt nước rõ ràng, tránh chồng lấn với du lịch, giao thông thủy hay khu bảo tồn; từ đó hình thành những cụm nuôi tập trung với hạ tầng đồng bộ và dịch vụ hậu cần đi kèm. Cách làm manh mún, nhỏ lẻ sẽ không thể tạo ra giá trị lớn và càng dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, ngành cần đẩy mạnh chuyển đổi từ lồng bè gỗ ven bờ sang lồng công nghiệp chịu lực như HDPE, hướng đến nuôi xa bờ, quản lý bằng công nghệ số, quan trắc môi trường và sử dụng giống chất lượng cao. Cục Thủy sản và Kiểm ngư cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của chuỗi giá trị: sản xuất phải gắn với chế biến và tiêu thụ, có truy xuất nguồn gốc, có doanh nghiệp thu mua thì sản phẩm mới đủ điều kiện vào thị trường xuất khẩu.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Hoàng Văn Hồng cho rằng, việc tìm kiếm các giải pháp nuôi biển công nghệ cao và bền vững không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu cấp thiết đối với ngành thủy sản. Theo ông Hồng, Nam Trung Bộ có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi biển với nhiều khu vực nước sâu, dòng chảy ổn định, thích hợp nuôi cá biển, tôm hùm, nhuyễn thể.
“Chúng ta buộc phải thay đổi. Nếu vẫn nuôi theo mô hình nhỏ lẻ, dựa vào kinh nghiệm và lồng gỗ truyền thống, thì rủi ro ngày càng lớn. Diễn đàn lần này không chỉ tháo gỡ khó khăn trong thực tế sản xuất, mà quan trọng hơn là định hướng một ngành nuôi biển hiện đại, hiệu quả, hướng đến công nghiệp hóa và bền vững,” ông Hồng khẳng định.
Nhiều chuyên gia nhận định, trong tương lai, ngành thủy sản Việt Nam muốn bứt phá thì phải vươn ra xa bờ, giảm áp lực khu vực ven bờ đang quá tải. Hệ thống lồng tròn dung tích hàng trăm đến hàng nghìn m³ với công nghệ tự động hóa chính là chìa khóa.
Những quốc gia phát triển nuôi biển như Na Uy hay Nhật Bản đã chứng minh: giá trị không nằm ở số lượng lồng, mà ở năng suất, chất lượng và an toàn môi trường. Sự chuyển mình của nghề nuôi biển sẽ không thể diễn ra trong một sớm một chiều, nhưng với sự đồng hành của khuyến nông, công nghệ và chính sách, một nền nuôi biển hiện đại, an toàn, thân thiện môi trường đang dần hình thành. Từ Nha Trang, tín hiệu đổi mới đang lan rộng, mở ra kỳ vọng về một ngành kinh tế biển bền vững cho Nam Trung Bộ và cả nước.
Nuôi biển là trụ cột quan trọng trong Chiến lược phát triển Thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cùng với Đề án phát triển nuôi trồng Thủy sản trên biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu đến năm 2030, diện tích nuôi biển trên cả nước đạt 300.000 ha, thể tích lồng nuôi đạt 12 triệu m3, sản lượng đạt 1,45 triệu tấn, giá trị xuất khẩu đạt 1,8 - 2 tỷ USD mỗi năm; tăng cường nuôi trồng, giảm khai thác.
Thùy Khánh