(TSVN) – Chẩn đoán bệnh cho tôm và xác định đúng nguyên nhân bệnh giúp người nuôi nhanh chóng có những biện pháp xử lý kịp thời, giảm thiểu thiệt hại trong ao. Để nắm bắt được các dấu hiệu phát sinh bệnh ở tôm thường quan sát từ màu sắc, vỏ, ruột gan, mang tôm…
Màu sắc của tôm bình thường sẽ liên quan với các điều kiện môi trường nước. Ở những ao cạn hoặc nước trong tôm có khuynh hướng sậm màu hơn tôm ở nước sâu hoặc nước ít trong. Tuy nhiên, sự thay đổi về màu sắc cũng có thể là một dấu hiệu về sức khỏe của tôm: Tôm bị sốc hoặc bị bệnh thường thay đổi màu sắc.
Tôm chuyển màu đỏ thì có thể là do sự phóng thích sắc tố caroten bởi sự hoại tử gan tụy và thường là tôm chết thường có màu đỏ. Những con tôm còi hay chậm lớn thường thấy một vết đỏ nâu hoặc trắng dọc lưng do sự tập trung sắc tố màu nâu vàng. Tôm ủ bệnh thường có vỏ cứng và tối màu.
Tôm đang ở trong giai đoạn bệnh nặng sẽ có cơ màu trắng đục hoặc hơi đỏ, tôm chuyển màu đỏ vỏ và các chân. Hầu hết các vết thương ở tôm sẽ chuyển màu đen hay nâu chỉ sau một thời gian ngắn. Đó là do sự sinh ra các sắc tố đen hay nâu sậm (melanin) để chống lại vi sinh vật (vì có tính độc) và bảo vệ tôm khỏi nhiễm bệnh.
Ngoài sự chuyển màu đen, có một số trường hợp không bình thường khác có thể ảnh hưởng đến phần phụ. Phần phụ có thể bị cong hoặc bị gãy và đôi có thể bị sưng phồng lên. Hiện tượng sưng lên như vậy thường là hậu quả của sự nhiễm trùng từ những vùng đáy ao bị ô nhiễm bởi chất thải.
Nhiều tôm có đốm đen như vết thương cũ: nguyên nhân là do bệnh vi khuẩn và thường liên quan tới hàm lượng chất hữu cơ cao trong nước.
Tôm trắng đuôi: Do bệnh hoặc do thấp hoặc nhiệt độ cao. Trong trường hợp cuối, tôm thường vẫn hoạt động bơi lội và có dấu hiệu sốc, thậm chí nhảy ra khỏi mặt nước. Một vài trong số chúng sẽ mất các điểm trắng nếu đặt trong bể sục khí tốt trong 1 ngày.
Đục cơ: Tỷ lệ tôm đục cơ/chài; các kiểu đục cơ (đục thành điểm, vệt hay đục nguyên thân tôm) luôn là dấu hiệu của tình trạng sức khỏe không tốt trên tôm.
Tôm có sinh vật bám bên ngoài vỏ có thể là do bacteria, protozoans, hoặc tảo. Hai nguyên nhân đầu là do nước có hàm lượng chất hữu cơ cao. Trong mọi trường hợp đều cho thấy ra tôm chậm lớn và khó lột. Một trong những dấu hiệu thông thường nhất của sức khỏe kém là hiện tượng đóng rong hay sự phát triển của các vi sinh vật trên bề mặt cơ thể tôm. Khi các sinh vật bám trên vỏ, chúng thường có khuynh hướng thu gom những chất vẩn cặn và bề ngoài tôm có màu xanh rêu hoặc bùn. Nếu tôm khỏe thì nó sẽ tự làm sạch cơ thể đều đặn và sau khi lột xác thì hiện tượng đóng rong sẽ mất đi nhưng đối với tôm yếu thì sự tự làm sạch và lột xác kém thường xuyên hơn.
Nước ao nuôi bẩn thì ngoài sự ảnh hưởng tới sức khỏe tôm, còn cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho các sinh vật gây bệnh và vì vậy làm tăng sự phát triển của sinh vật bám trên cơ thể tôm.
Một dấu hiệu khác thường thấy là tôm bị mềm vỏ kinh niên. Thông thường vỏ tôm cứng lại sau khi lột xác 24 giờ. Nếu vỏ không cứng được thì nó sẽ bị nhăn và biến dạng và trở nên mẫn cảm hơn với các bệnh. Có rất nhiều nguyên nhân gây hiện tượng mềm vỏ như: Thức ăn hôi thối, kém chất lượng (nấm Aspergillus trong thức ăn) hoặc thiếu thức ăn; thả giống mật độ cao, pH thấp, hàm lượng lân trong nước thấp, thuốc trừ sâu.
Tình trạng trơn láng hay lồi lõm của vỏ cho biết sơ lược về trạng thái dinh dưỡng của tôm. Tôm đủ dinh dưỡng có vỏ bóng, khá dày chắc trong khi tôm bệnh vỏ thường lồi lõm. Ngoài ra, vỏ rất mỏng do/hoặc không do lột xác không cứng vỏ thường cho thấy môi trường nước xấu và tôm sốc rất nặng. Nếu trong chày có số lượng tôm mỏng vỏ nhiều hơn 5% thì cần đặc biệt lưu ý.
Hình dạng bất thường: Tình trạng dị hình (do các bệnh hay gặp như ASDD hoặc IHHNV), gãy gai chủy, đứt râu, mòn cụt chân bơi, chân bò, chóp đuôi (do đáy ao dơ); vỏ có các chấm đốm đen, đốm nâu, đốm trắng (do nhiễm khuẩn hoặc do bệnh taura).
Phụ bộ: Sưng phồng hay gãy phụ bộ thường do nhiễm khuẩn từ những vùng đáy ao bị ô nhiễm.
Mang bình thường có màu trắng trong suốt. Mang đổi màu sang vàng, nâu hay đen thường do đáy ao dơ, chất hữu cơ trong nước nhiều. Ngoài ra, các vùng trắng như tuyết trên mang có thể là mang bị hoại tử do bão hòa khí trong nước. Khi tôm khỏe thường giữ mang rất sạch, nhưng tôm bệnh hay yếu mang tôm sẽ có sự thay đổi:
Mang tôm có màu nâu: Do quá trình tự làm sạch kém nên các chất bẩn bám vào mang và có thể nhìn thấy qua vỏ đầu ngực.
Mang tôm có màu đen: Nếu mang thực sự bị tổn thương thì mang tôm có màu đen. Tôm cũng có thể có màu đen trên mang hoặc ở bên trong vỏ giáp do các muối sắt tích tụ lại.
Mang tôm có màu hồng: Nếu mang có màu hồng thì có thể do tôm sống trong môi trường có hàm lượng ôxy hòa tan thấp.
Tôm bệnh nặng thì dừng ăn và những con đang ốm sẽ ăn ít hơn bình thường. Do đó khi quan sát ruột tôm sẽ thấy: Ruột không có thức ăn là dấu hiệu của tôm bệnh và những con tôm có ít thức ăn trong ruột có thể ở giai đoạn đầu của bệnh. Ruột cũng có thể có màu trắng hơn hay đỏ hơn so với màu bình thường của màu thức ăn viên. Ruột có màu đỏ có thể là do tôm ăn những động vật không xương sống có màu đỏ trong ao như giun nhiều tơ. Nếu ruột có màu đỏ không phải do giun nhiều tơ thì đó là dấu hiệu cho biết tôm đã ăn xác của các con tôm chết trong ao và điều này chứng tỏ rằng trong ao đã có tôm chết.
Gan tụy của tôm khỏe mạnh có màu sắc nâu vàng, vàng cam. Dịch gan khi bóp gan ra, có dịch màu nâu vàng sệt, không chảy. Mùi tanh nhẹ – đặc trưng. Màng bao nhìn từ ngoài vò giáp, thấy màng bao gan màu vàng nhạt bọc 1/2 gan dưới. Hình dạng rộng – tới hai mép mang, dài – ngang cổ giáp; rõ ràng, sắt nét. Thấy rõ dạ dày “hạt gạo” có màu đen nổi bật. Khi tôm bệnh màu sắc của hệ gan tụy cũng có thể thay đổi và nguy hiểm nhất là màu vàng mà ta thường gọi là bệnh đầu vàng.
Hoàng Yến