(TSVN) – Ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất thủy sản đã và đang trở thành xu thế tất yếu hiện nay. Theo đó, nhờ áp dụng những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến đã giúp ngành thủy sản nâng cao năng suất, chất lượng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Một trong những giải pháp công nghệ nổi bật nhất tại vòng chung kết cuộc thi “Đổi mới Sáng tạo Ngành Thủy sản tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2024” là OxyBoost, dự án đến từ nhóm tác giả của Công ty TNHH Wesolife.
Chế phẩm sinh học trị bệnh trên tôm mang lại hiệu quả tích cực
OxyBoost được phát triển nhằm giải quyết một trong những thách thức lớn nhất trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản: Cung cấp ôxy hòa tan hiệu quả và tiết kiệm năng lượng. OxyBoost sử dụng công nghệ dòng khí xoắn, giúp tạo ra các vi bọt khí nhỏ và đều, tối ưu hóa quá trình hòa tan ôxy vào nước. Điều đáng chú ý là thiết bị này hoạt động ở áp suất thấp chỉ khoảng 0,5 bar, trong khi các hệ thống thông thường đòi hỏi áp suất cao hơn rất nhiều. Điều này giúp giảm đáng kể chi phí năng lượng.
Bên cạnh đó, OxyBoost được thiết kế theo dạng linh kiện rời, dễ dàng lắp đặt vào các phụ kiện nhựa có sẵn trên thị trường. Người nuôi có thể tích hợp sản phẩm này vào hệ thống hiện có mà không cần phải thay đổi nhiều về cơ sở hạ tầng. Với mức giá dao động 189.000 – 890.000 đồng tùy loại, sản phẩm này nhanh chóng thu hút sự chú ý của nhiều nông dân thủy sản nhờ tính kinh tế và hiệu quả.
Nhằm phát triển chế phẩm sinh học cải thiện môi trường nước và phòng trị bệnh AHPND ở tôm, nhóm tác giả Trường Đại học Tài Nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tạo chế phẩm Zeolite sinh học. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng Bacillus subtilis, do vi khuẩn này có hiệu quả trong cải thiện môi trường nước và ức chế vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm. Vì vậy, chế phẩm mới có tên Zeoshrimp, dạng bột, được tạo ra bằng cách trộn Zeolite (SiO2, Al2O3) với vi khuẩn Bacillus subtilis sau khi đã sấy khô (độ ẩm dưới 10%) theo tỷ lệ 1:1, cùng với chất mang.
Thử nghiệm chế phẩm trên các ao nuôi bị nhiễm bệnh AHPND (ao 2) tại Cần Giờ và so sánh với ao không sử dụng chế phẩm (đối chứng), ao 1 sử dụng chế phẩm Aqua Clean hiện được nhiều người dân đang sử dụng. Kết quả cho thấy, tôm ngừng chết hoàn toàn vào ngày thứ 8 sau khi bổ sung chế phẩm, trong khi tỷ lệ chết ở ao đối chứng là 55%. Sau 12 tuần nuôi, trọng lượng tôm ao đối chứng đạt 15 – 17 g, ao 1 là 18 – 19 g và ao 2 là 19 – 20 g.
Ngoài ra, môi trường nước trong ao nuôi khi bổ sung chế phẩm sinh học được cải thiện, giảm hàm lượng chất rắn lơ lửng trong nước. Hiệu quả xử lý nước của chế phẩm tốt nhất khi Bacillus subtilis ở mật độ tối thiểu là 103 CFU/mL. Liều dùng 4 kg/1.000 m3 nước, thực hiện 1 lần/tuần trong tháng thứ nhất, các tháng tiếp theo có thể tăng số lần sử dụng/tuần, tùy theo chất lượng của nước khi kiểm tra.
Là nghiên cứu của các nhà khoa học tại Trường Đại học Cần Thơ. Theo đó, để bảo quản sống tôm càng xanh, nhóm tác giả đã sử dụng dung dịch thuốc AQui-S. AQui-S được xem là chất gây mê an toàn và hiệu quả, được sử dụng rộng rãi ở một số nước. Kết quả, sau 3 ngày trữ, tôm vẫn duy trì tỷ lệ sống rất cao, lên đến gần 89 – 93%, trong khi mẫu không gây mê sau khi vận chuyển và trữ nước sạch 3 ngày có tỷ lệ sống khoảng 80% đối với tôm cỡ 8 – 12, và chỉ còn khoảng 74% đối với tôm cỡ 12 – 15.
Với bảo quản lạnh tôm càng xanh sau thu hoạch, nhóm sử dụng dung dịch gelatin nồng độ 3% trong nước và khuấy đều ở nhiệt độ 60ºC, thời gian khuấy khoảng 10 phút cho gelatin (nguyên liệu dùng làm chất làm đặc và tạo gel phổ biến có nguồn gốc từ động vật có chứa hàm lượng protein cao) tan hoàn toàn, tạo thành dung dịch trong suốt. Để nguội dung dịch và giữ lạnh ở khoảng 10ºC thì tiến hành bảo quản tôm càng xanh. Thời hạn sử dụng tôm càng xanh có phủ màng gelatin trong điều kiện bảo quản lạnh vẫn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm là 15 ngày, trong khi mẫu không nhúng gelatin sau 09 ngày bảo quản đã có dấu hiệu hư hỏng.
Đối với bảo quản đông lạnh, cấp đông các khay trong tủ đông -20ºC, chất lượng tôm càng xanh vẫn đảm bảo sau 6 tháng bảo quản đông lạnh.
Ruồi lính đen (Hermetia illucens) là côn trùng vô hại đối với con người, không phải là ký chủ trung gian truyền bệnh cho con người và vật nuôi (Spranghers và cộng sự, 2017). Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế đã tiến hành thực hiện Dự án “Sản xuất và sử dụng ấu trùng ruồi lính đen (Hermetia illucens Linnaeus, 1758) làm thức ăn cho một số đối tượng thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế tại Thừa – Thiên Huế”.
Qua 2 năm thực hiện, các nội dung dự án cho thấy, có 11 loại phụ phế phẩm nông nghiệp có thể sử dụng để nuôi ruồi lính đen, chưa thấy ruồi lính đen phát tán ra ngoài tự nhiên ở khu vực thực hiện dự án, không ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Chất lượng thịt của cá không bị ảnh hưởng khi cho ăn thức ăn ấu trùng ruồi lính đen. Tỷ lệ sống qua các mô hình nuôi thương phẩm đạt từ 70% đến 85%, cho năng suất, lợi nhuận cao.
Nhóm thực hiện dự án kiến nghị người dân nên kết hợp 50% ấu trùng ruồi lính đen tươi và 50% thức ăn công nghiệp làm thức ăn cho đối tượng nuôi; nên thay thế đến 30% protein bột cá bằng protein bột ấu trùng ruồi lính đen nuôi cá lóc và cá rô đầu vuông và 40% nuôi ếch Thái Lan.
Là phát minh của Công ty TNHH GeoAI Việt Nam. GeoAI không chỉ là một phần mềm quản lý tàu cá thông thường mà còn là một giải pháp chuyển đổi số toàn diện trong công tác quản lý tàu cá và chống khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU).
GeoAI cung cấp một hệ thống dữ liệu số hóa, giúp số hóa toàn bộ quy trình quản lý tại cảng cá và trên biển. Từ hồ sơ giấy phép hoạt động của cảng, dữ liệu ra vào cảng của tàu cá, nhật ký khai thác điện tử, cho đến giám sát hành trình và truy xuất nguồn gốc hải sản. Tất cả được kết nối và lưu trữ trên hệ thống cơ sở dữ liệu chung của ngành thủy sản, tạo ra một quy trình tuần hoàn khép kín, không chỉ giúp tiết kiệm thời gian mà còn đảm bảo tính minh bạch và chính xác trong quá trình quản lý. Ngư dân và chủ tàu có thể dễ dàng thực hiện các thao tác như khai báo nhật ký khai thác, xin cấp phép xuất, nhập cảng qua ứng dụng di động GeoAI.
Hệ thống này còn hỗ trợ tạo mã QR Code để truy xuất nguồn gốc từng mẻ lưới, giúp minh bạch hóa sản lượng khai thác, đáp ứng yêu cầu gỡ “thẻ vàng” IUU từ Ủy ban châu Âu. Ngoài việc quản lý tàu cá, GeoAI còn cung cấp các chức năng dự báo ngư trường và phân tích sản lượng khai thác của từng chuyến biển. Điều này giúp ngư dân có thể tối ưu hóa các chuyến đánh bắt, tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả kinh tế. Thông tin dự báo ngư trường được cập nhật liên tục, giúp ngư dân có thêm thông tin cần thiết để đưa ra quyết định trong hoạt động trên biển.
Lê Loan