T3, 28/11/2023 08:00

Giải pháp phòng ngừa bệnh TPD

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Vừa qua, Công ty Zeigler Việt Nam đã tổ chức buổi hội thảo nhằm hỗ trợ khách hàng về chiến lược quản lý phòng ngừa và kiểm soát Hội chứng chết nhanh giai đoạn PL (gọi tắt là TPD) tại Phan Rang, Ninh Thuận. Sự kiện có sự tham dự của 16 công ty sản xuất tôm giống lớn tại miền Trung.

Chưa rõ nguyên nhân 

Zeigler thường xuyên hỗ trợ, chia sẻ thông tin mới về bệnh TPD cho khách hàng

Tại đây, Peter Van Wyk, Giám đốc kỹ thuật của Zeigler Bros. Inc., Mỹ đã trình bày những cập nhật gần đây về TPD và chia sẻ các giải pháp quản lý sức khỏe cho tôm giống mà ông có được trong gần 40 năm kinh nghiệm. TPD lần đầu tiên được phát hiện tại các trại giống ở Ecuador (2015) với triệu chứng gây chết hàng loạt, sau đó là bùng phát ở Trung Quốc (2020) và gần đây hơn là ở Việt Nam (2023). Trong các bể ấu trùng bị ảnh hưởng bởi TPD, sự phát triển của ấu trùng diễn ra bình thường cho đến khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn Post. Các triệu chứng đầu tiên thường xuất hiện ở giai đoạn PL2 – PL4, khi tôm bị bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng đặc trưng là: ruột trống, gan tụy mờ nhạt, không màu. Tôm Post thường sẽ bắt đầu chết một vài giờ sau đó, tôm giống sẽ chết hàng loạt sau 24 giờ có dấu hiệu của bệnh. 

Tôm giống nhiễm bệnh TPD có thể chết hàng loạt

Nguyên nhân gây bệnh được được xác định là một trong các tác nhân sau: (1) nhiễm một (các) chủng Vibrio parahaemolyticus mới (Zou và cộng sự, ShrimpVet); (2) Đồng nhiễm bởi một chủng mới, không phát sáng của V. harveyi và V. parahaemolyticus không thuộc chủng gây bệnh AHPND (Hoàng Tùng); hoặc (3) bị nhiễm một loại Virus RNA mới từ họ Marmidae, được gọi là Baishivirus (Xu và cộng sự). Zeigler tin rằng phần lớn các đợt bùng phát TPD ở châu Á là do một hoặc nhiều chủng V. parahaemolyticus khác với chủng V. parahaemolyticus gây ra bệnh AHPND. Độc tố do các chủng Vibrio này tạo ra khác với độc tố PirA và PirB liên quan đến AHPND. V. harveyi cũng được tìm thấy trong bể nhiễm TPD nhưng không thuộc chủng gây bệnh phát sáng. Baishivirus có thể gây ra các triệu chứng rất giống với TPD, nhưng thực tế là V. parahaemolyticu phân lập từ tôm bị TPD có khả năng lây nhiễm sang tôm khỏe mạnh, điều này cho thấy rằng virus RNA không phải là nguyên nhân gây chết hàng loạt cho tôm giống ở Việt Nam. Cần thêm thông tin để xác định chính xác tác nhân gây bệnh và phương thức lây nhiễm. 

Sử dụng EZ Artemia Ultra thay thế ấu trùng Artemia cho tỷ lệ sống cao hơn đáng kể 

Tập trung phòng ngừa 

Trong khi nguyên nhân của căn bệnh này đang được nghiên cứu thì điều cần thiết là các trại giống phải thực hiện các biện pháp quản lý, tập trung vào phòng ngừa bệnh tổng hợp và đặc biệt là giảm thiểu rủi ro liên quan đến nhóm vi khuẩn Vibrio gây bệnh. Van Wyk đặc biệt khuyến nghị các trại giống tôm nên áp dụng phương pháp tiếp cận HACCP (Điểm kiểm soát quan trọng phân tích mối nguy) để giảm thiểu rủi ro dịch bệnh. 

Đối với các trại giống đã từng bùng phát TPD, việc sát khuẩn và làm khô toàn bộ cơ sở sản xuất là cần thiết. Vì Vibrio hình thành màng sinh học bảo vệ chúng khỏi quá trình sát khuẩn bằng clo thông thường nên việc loại bỏ màng sinh học là rất quan trọng đối với sự thành công của bước khử trùng. Van Wyk đưa ra ba phương pháp loại bỏ màng sinh học: (1) Loại bỏ cơ học; (2) Loại bỏ bằng hóa chất và (3) khử trùng bằng điện hóa. 

Van Wyk cũng khuyến nghị các trại giống nên đầu tư vào các công nghệ lọc và khử trùng nước biển hiệu quả cao như: Hệ thống lọc cát, lọc UF và khử khuẩn bằng ozone và tia UV. Tuy nhiên, nước biển đã được xử lý vẫn có thể bị Vibrio xâm nhập nhanh chóng, vì vậy để giảm thiểu cơ hội cho Vibrio phát triển, thì việc sử dụng vi sinh chất lượng cao, chẳng hạn như Zeigler Rescue duy trì ở mật độ 100.000 CFU/mL ngay khi có thể (sau bước khử trùng cuối cùng), để lấn át và ức chế Vibrio là rất quan trọng. 

Đối với tôm bố mẹ, Van Wyk khuyến cáo nên sàng lọc PCR và đông lạnh tất cả các loại thức ăn tự nhiên, giảm dần và tiến tới thay thế các loại thức ăn tự nhiên có rủi ro cao bằng thức ăn nhân tạo cho tôm bố mẹ như: Redi-Mate của Zeigler. 

Trong các hệ thống nuôi ấu trùng, Vibrio thường được đưa vào cùng với tảo tươi và Artemia sinh khối làm thức ăn cho ấu trùng tôm. Đối với các hệ thống sản xuất tảo, điểm quan trọng chính là quy trình nuôi cấy thuần khiết và quy trình khử trùng nguồn cung cấp nước biển và không khí. Nhiều trại giống trên thế giới đã cải thiện chất lượng tảo và an toàn sinh học thông qua việc sử dụng hệ thống nuôi tảo bằng Bioreactor. Tuy nhiên, khi các trại giống gặp phải vấn đề nhiễm Vibrio trong nuôi cấy tảo, sẽ rất hữu ích nếu xây dựng chế độ ăn có khả năng thay thế tảo tươi trong quy trình ương nuôi ấu trùng. Quy trình thay thế tảo tươi bằng thức ăn dạng lỏng EZ Larva của Zeigler, đã được chứng minh là có khả năng thay thế 50% nhu cầu tảo khi ấu trùng ở giai đoạn Zoea 1 và 100% tảo từ Zoea 2 trở đi. 

Quan tâm chất lượng thức ăn 

Ấu trùng Artemia là vector quan trọng nhất đưa vi khuẩn Vibrio gây bệnh vào hệ thống. Việc loại bỏ vỏ trứng Artemia rất quan trọng trong việc làm giảm mật độ Vibrio, nhưng ấu trùng Artemia sau khi nở vẫn có thể chứa một lượng đáng kể Vibrio gây bệnh. Zeigler cung cấp sản phẩm thức ăn vi nang dạng lỏng EZ Artemia Ultra, là sản phẩm an toàn sinh học thay thế cho ấu trùng Artemia. Mặc dù EZ Artemia Ultra có khả năng thay thế tới 100% Artemia sinh khối trong quy trình, tuy nhiên việc thay thế 100% ấu trùng Artemia là không cần thiết để thu được lợi ích từ việc thay thế đó. Bởi vì vi sinh Rescue đã được đưa vào trong viên nang thức ăn với mật độ 1 tỷ cfu/g. Rescue chứa 4 chủng Bacillus spp có khả năng lấn át, ức chế sự phát triển của các chủng Vibrio gây bệnh. 

Van Wyk chia sẻ, một nghiên cứu gần đây được thực hiện tại một trại giống thương mại ở Indonesia, trong đó các bể sử dụng EZ Artemia Ultra thay thế 33% hoặc thay thế 100% ấu trùng Artemia từ PL1 – PL6 đều có tỷ lệ sống cao hơn đáng kể so với các bể đối chứng được nuôi bằng ấu trùng Artemia theo quy trình thông thường. 

Van Wyk chỉ ra rằng tỷ lệ sống là yếu tố quan trọng nhất mang lại lợi nhuận cho trại giống và cách tốt nhất để các trại giống tối đa hóa lợi nhuận là đầu tư vào thức ăn chất lượng cao. Một thử nghiệm đã được thực hiện để so sánh mô hình thức ăn chi phí thấp với chi phí cao. Kết quả cho thấy, chỉ cần cải thiện tỷ lệ sống 2% đã đủ chi trả cho thức ăn có giá cao hơn 40% so thức ăn trong mô hình thức ăn chi phí thấp. Nếu tỷ lệ sống được cải thiện 5%, lợi nhuận ở mô hình thức ăn chi phí cao sẽ cao hơn 20% so mô hình thức ăn chi phí thấp. 

Chi phí cho thức ăn cao hơn sẽ cải thiện lợi nhuận, và tất nhiên đó phải là thức ăn có chất lượng cao hơn. Van Wyk cho rằng hiệu quả sử dụng protein (số g PL được tạo ra trên mỗi g protein được cho ăn) là một chỉ số về chất lượng protein trong thức ăn chứ không phải là hàm lượng (số lượng) protein trong thức ăn. Để chứng minh cho khẳng định trên, Van Wyk đã trình bày dữ liệu so sánh hiệu quả sử dụng Zpro cho PL của Zeigler với hiệu quả của 4 loại thức ăn bán chạy nhất của đối thủ cạnh tranh. Z Pro được xây dựng để tối đa hóa hiệu quả bằng cách cung cấp mức chính xác 70 chất dinh dưỡng theo số lượng, nhu cầu của PL và bằng cách sử dụng các nguyên liệu được chọn lọc để có khả năng tiêu hóa cao. Kết quả thử nghiệm cho thấy, tôm được nuôi bằng Z Pro có sự tăng trưởng nhanh hơn và tỷ lệ sống cũng cao hơn đáng kể so đối thủ. Hiệu quả sử dụng protein trung bình cao hơn 80% so chế độ ăn của đối thủ cạnh tranh, tất cả các loại thức ăn đều có hàm lượng protein cao hơn Z Pro. Đối với thức ăn có hiệu quả sử dụng protein cao, các chất dinh dưỡng sẽ được chuyển đổi hiệu quả thành biomass của PL. Các chất dinh dưỡng dư thừa không được tiêu hóa sẽ được bài tiết vào nước, dẫn đến nồng độ NH3 cao. NH3 là nguồn nitơ cho Vibrio phát triển và khi nồng độ NH3 cao sẽ dẫn đến số lượng Vibrio trong nước cũng cao hơn. Đồng thời NH3 cao cũng sẽ gây stress cho tôm giống. Khi PL bị stress sẽ không phát triển tốt và ít có khả năng chống chọi với Vibrio. 

Theo Van Wyk, ấu trùng được nuôi bằng Z Pro trong trại giống không chỉ có tỷ lệ sống cao hơn và kích thước lớn hơn khi thu hoạch trong trại giống mà còn có tỷ lệ sống cao hơn nhiều khi đưa ra ương vèo ở các bể raceway được nuôi bằng các loại thức ăn khác. Từ đó dẫn đến tăng lợi nhuận. 

Bằng cách hỗ trợ các trại giống phát triển, tiếp cận HAACP nhằm cải thiện an toàn sinh học và cung cấp các giải pháp về probiotic cũng như dinh dưỡng giúp nâng cao tỷ lệ sống, Zeigler đang làm mọi thứ có thể để giúp ngành tôm giống vượt qua thách thức dịch bệnh mới nhất này. 

PETER VAN WYK, CHRIS STOCK, CRAIG BROWDY, MARK NAPULAN, CAO KHANH LY

(Tâm Đào lược dịch)

 

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!