(TSVN) – Trong những năm gần đây, khoa học kỹ thuật đã có nhiều bước tiến đáng kể, đóng vai trò quan trọng giúp người nuôi tôm càng xanh có thể nuôi với quy mô lớn, mật độ cao hơn (nuôi công nghiệp) và cho năng suất cao.
Tôm càng xanh là loài tôm nước ngọt đặc trưng ở Việt Nam và một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Campuchia, Malaysia,… Tại Việt Nam, tôm càng xanh sống tự nhiên trong ao hồ sông suối, mương rạch,… Tôm có thể sống trong điều kiện rộng muối, độ mặn tới 12‰ và trong tự nhiên, tôm ăn các loài có trong nước như tôm cá con và các động thực vật phù du có trong môi trường.
Tôm có giá trị dinh dưỡng cao, thịt ngon, nhiều người ưa chuộng. Để đáp ứng nhu cầu, từ lâu tôm càng xanh được đưa vào nuôi xen canh tôm lúa hoặc nuôi luân canh trong ao, hồ,… Nhưng trở ngại lớn ở việc nuôi tôm càng xanh theo phương thức truyền thống là sản lượng không cao, tôm nuôi bị phân đàn, đặc biệt tôm nuôi hao hụt nhiều, tỷ lệ sống tầm 50% và tôm bị dịch bệnh,… dẫn đến năng suất không cao.
Trong những năm gần đây khoa học kỹ thuật (KHKT) đã có những bước tiến đáng kể, đóng vai trò quan trọng giúp người nuôi tôm càng xanh có thể nuôi với quy mô lớn, mật độ cao hơn (nuôi công nghiệp) cho năng suất cao. Một số thành tựu về KHKT trong nuôi tôm càng xanh có thể kể đến như:
– Thời gian qua, các Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản, trường đại học và một số trung tâm giống thủy sản đã nghiên cứu cho sản xuất thành công giống tôm càng xanh toàn đực (tôm đơn tính). Ưu thế của tôm càng xanh toàn đực là lớn nhanh hơn con cái, vì thế nuôi toàn đực sẽ cho sản lượng cao.
– Bên cạnh đó, các chuyên gia dinh dưỡng cũng đã nghiên cứu được thức ăn tổng hợp (thức ăn công nghiệp) chuyên dùng cho tôm càng xanh, thay thế thức ăn tự nhiên. Nhờ đó, mô hình nuôi tôm càng xanh công nghiệp với mật độ thả cao, ăn hoàn toàn thức ăn tổng hợp chế biến từ nhà máy ngày càng phổ biến, cho năng suất, sản lượng thu hoạch cao.
– Hay sự phát triển của KHKT cũng đã góp phần tạo ra nhiều sản phẩm hữu ích như men vi sinh, enzyme tiêu hóa, thúc đẩy quá trình tiêu hóa ở tôm nuôi bằng thức ăn công nghiệp. Bên cạnh men đường ruột thì nhiều dòng vi sinh (probiotic) cải thiện chất lượng nước nuôi tôm cũng ra đời. Chúng phân hủy chất hữu cơ lơ lửng, hấp phụ chất bài thải,… tạo môi trường ao nuôi thông thoáng, ít ô nhiễm. Các dòng phổ biến như Bacillus ssp, Saccharomyses, Nitrobacter, Nitrosomonas có trong các sản phẩm mà người nuôi thường sử dụng như BIO BACTER, BIO BACIPRO,… Các sản phẩm này định kỳ 7 – 10 ngày tạt xuống ao nuôi 1 đợt, liều 1 kg/2.000 – 3.000 m3 nước sẽ giúp cải thiện môi trường nước ao nuôi tôm.
– Đặc biệt, sự phát triển của KHKT đã cho phép chiết tách và sử dụng prebiotic, một thành phần quan trọng cho sức khỏe hệ vi sinh vật đường ruột của tôm. Chúng có công dụng làm tăng khả năng phòng vệ cơ thể (tăng hệ miễn dịch), giúp tăng sức đề kháng, góp phần phòng ngừa bệnh tật xảy ra ở tôm nuôi. Bằng cách trộn prebiotic vào thức ăn cho tôm ăn sẽ giúp hạn chế dịch bệnh, tăng tỷ lệ sống. Prebiotic phổ biến dùng cho tôm hiện nay là Beta – Glucan 1,3-1,6 có trong sản phẩm BIO ACTIVIT for shrimp do Công ty Bio Pharmachemie sản xuất.
Tóm lại, KHKT đã phát triển không ngừng và đóng góp lớn cho nhiều ngành, trong đó có ngành nuôi trồng thủy sản. KHKT đã khắc phục các trở ngại mà người nuôi gặp phải như công tác sản xuất giống, cải thiện chất lượng nước, chế biến thức ăn cho tôm, sản xuất men vi sinh, enzyme hay các chất giúp tăng sức đề kháng, tăng hấp thu,… Từ đó giúp nuôi tôm ở mật độ cao, tôm lớn đồng đều kích cỡ, tăng năng suất, sản lượng,… mang lại lợi nhuận cao hơn.
Đặng Hồng Đức
Cố vấn kỹ thuật Công ty Bio Pharmachemie