Tiếp tục hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp được Bộ Tài chính xây dựng quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp theo quy định tại Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 của Chính phủ. Hiện, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân về bản Dự thảo này.

Tầm quan trọng

Bộ Tài chính cho biết, việc xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về thực hiện hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp là rất cần thiết, căn cứ trên những cơ sở pháp lý và thực tiễn, góp phần thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, cụ thể:

Thứ nhất, việc ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp là nhằm triển khai chính sách bảo hiểm nông nghiệp theo Nghị định số 58/2018/NĐ-CP về bảo hiểm nông nghiệp bao gồm: Đối tượng tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp được hỗ trợ; loại cây trồng, vật nuôi, NTTS được hỗ trợ; loại rủi ro được bảo hiểm được hỗ trợ; mức hỗ trợ; thời gian thực hiện hỗ trợ; địa bàn được hỗ trợ; mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương để thực hiện hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp.

Thứ hai, Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg ngày 26/6/2019 và Quyết định số 3/2021/QĐ-TTg ngày 25/1/2021 về thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp có thời gian thực hiện từ ngày 26/6/2019 đến ngày 31/12/2021. Do đó, cần thiết phải ban hành kịp thời Quyết định về thực hiện chính sách cho giai đoạn tiếp theo (kể từ ngày 1/1/2022) để đảm bảo việc thực hiện chính sách được liên tục, ổn định, không bị ngắt quãng và không có khoảng trống về pháp lý gây khó khăn cho việc tham gia bảo hiểm của người nông dân (bởi đặc điểm sản xuất nông nghiệp theo mùa, vụ có thể kéo dài từ đầu năm này sang năm khác) và các cấp chính quyền, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) trong tổ chức thực hiện.

Thứ ba, việc ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp tạo điều kiện phát triển bảo hiểm nông nghiệp nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.

Đối tượng được hỗ trợ, mức hỗ trợ

Trên cơ sở cân đối ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đề xuất đối tượng bảo hiểm được hỗ trợ tại dự thảo Quyết định như sau: Cây trồng là cây lúa; vật nuôi gồm trâu, bò, lợn; NTTS gồm tôm sú, TTCT. Việc lựa chọn đối tượng bảo hiểm trên căn cứ theo đề xuất của Bộ NN&PTNT, là các đối tượng có quy mô, diện tích mang tính đại diện cho các vùng miền, tạo thuận lợi cho việc triển khai bảo hiểm theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Đây cũng là các sản phẩm chủ lực của ngành nông nghiệp, phù hợp với mục tiêu, định hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 – 2025 theo Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 25/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ.

Về mức hỗ trợ, để khuyến khích tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp tham gia bảo hiểm nông nghiệp, kế thừa quy định tại Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg và Quyết định số 3/2021/QĐ-TTg; Bộ Tài chính đề xuất quy định tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp được hỗ trợ và mức hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp tối đa theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 58/2018/NĐ-CP, cụ thể như sau: Cá nhân sản xuất nông nghiệp thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo: 90%; cá nhân sản xuất nông nghiệp khác: 20% phí bảo hiểm nông nghiệp; tổ chức sản xuất nông nghiệp đáp ứng các điều kiện cụ thể: 20%.

Địa bàn hỗ trợ

Trên cơ sở ý kiến của Bộ NN&PTNT và cân đối ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đề xuất thực hiện hỗ trợ cho các địa bàn, cụ thể:

– Cây lúa, tại 7 tỉnh: Thái Bình, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, An Giang, Đồng Tháp.

– Trâu, bò: Tại 11 tỉnh, thành phố là Hà Giang, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Dương. Đối với lợn: Tại 9 tỉnh, thành phố là Bắc Giang, Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Đắk Lắk, Đồng Nai.

– Tôm sú, TTCT, tại 5 tỉnh: Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.

Bộ Tài chính ước tính kinh phí hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp của ngân sách nhà nước trong tình hình hiện nay là khoảng 74,9 tỷ đồng/năm (trong đó kinh phí hỗ trợ bảo hiểm cây lúa khoảng 18,4 tỷ đồng/năm; trâu, bò, lợn khoảng 47,5 tỷ đồng/năm; tôm sú, TTCT khoảng 9 tỷ đồng/năm). Trường hợp các địa phương triển khai bảo hiểm nông nghiệp trên diện rộng, Bộ Tài chính sẽ căn cứ tình hình triển khai hàng năm để ước số phí bảo hiểm được ngân sách nhà nước hỗ trợ phù hợp với thực tiễn.

Hải Lý

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!