(TSVN) – Theo nhận định, xâm nhập mặn ở vùng ven biển Thanh Hóa vẫn duy trì ở mức cao và lấn sâu vào nội địa. Để ứng phó kịp thời với hạn hán, xâm nhập mặn gây ra, các địa phương ven biển đang tích cực triển khai thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với sản xuất nuôi trồng thủy sản trong vụ xuân hè năm 2022.
Theo nhận định của Chi cục Thủy lợi từ tháng 5 – 10/2022, trên địa bàn huyện Nga Sơn có khoảng 1.100 – 1.900 ha diện tích cây trồng vụ mùa và nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn. Để chủ động đối phó với tình hình xâm nhập mặn, huyện Nga Sơn đã tổ chức đắp đập tạm ngăn mặn trên sông Càn tại cầu Điền Hộ, xã Nga Phú.
Đồng thời, phối hợp với các đơn vị quản lý, khai thác các công trình thủy lợi trên địa bàn theo dõi chặt chẽ tình hình xâm nhập mặn; đóng, mở các cống ở cửa sông, cửa biển để giữ ngọt, ngăn nước mặn. Thông báo rộng rãi trên hệ thống loa truyền thanh các xã về mức độ xâm nhập mặn và khuyến cáo các hộ nuôi trồng thủy sản tái sử dụng nước trong trường hợp mặn tăng cao để bảo vệ, chăm sóc, nuôi trồng thủy sản phù hợp.
Đài Khí tượng Thủy văn Thanh Hóa cũng dự báo, từ tháng 5 – 10/2022, trên địa bàn tỉnh có khả năng xảy ra 6 – 8 đợt nắng nóng, trong đó có từ 3 – 5 đợt nắng nóng gay gắt. Tại các trạm bơm thuộc các huyện Hậu Lộc, Hà Trung, Hoằng Hóa và TP Thanh Hóa cũng đã xảy ra tình trạng thiếu nước do xâm nhập mặn vào sâu trong cống lấy nước. Độ mặn 1‰ vùng cửa sông ven biển tiếp tục duy trì ở mức cao và lấn sâu vào nội địa từ 15 – 23,2 km.
Ảnh minh họa. Ảnh: MAP
Cụ thể, trên sông Mã từ 21 – 23km, sông Lèn từ 15 – 19,5 km, sông Hoàng và sông Yên từ 19,5 – 23,2 km; sông Nhơm khoảng 22,2 km. Ngoài ra, tại một số trạm bơm có công suất lớn ở huyện Nga Sơn, độ mặn đo được dao động từ 8 – 9‰. Theo đó, vùng đồng bằng ven biển ảnh hưởng xâm nhập mặn lên tới khoảng 4.800 – 7.200 ha và tập trung ở các huyện Nga Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, thị xã Nghi Sơn, TP Sầm Sơn…
Trước thực trạng trên, các địa phương ven biển có diện tích nuôi trồng thủy sản lớn đã chủ động theo dõi thời tiết, cập nhật thông tin diễn biến mực nước, mức độ hạn và xâm nhập mặn để có kế hoạch ứng phó. Trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt, ngay từ đầu tháng 3 người nuôi đã chủ động lấy nước ngọt vào ao chứa để dự trữ, xử lý và thả giống theo kế hoạch.
Thường xuyên theo dõi, quản lý môi trường ao nuôi, quản lý thức ăn, bổ sung thêm các vitamin, khoáng chất… để tăng sức đề kháng; tăng cường sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm cải thiện chất lượng nước, góp phần hạn chế việc thay nước thường xuyên.
Đối với nuôi tôm nước lợ, hướng dẫn các hộ nuôi gia cố bờ, cống để tránh hiện tượng rò rỉ, thẩm lậu, có ao lắng đúng quy cách, thực hiện biện pháp an toàn sinh học trước khi thả tôm và giữ môi trường bền vững, hạn chế mất nước và thay nước khi môi trường nuôi ổn định.
Những ao nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh duy trì mực nước trong ao tối thiểu 1,3 – 1,5 m, nếu cần cấp bổ sung nước thì phải lấy nước từ ao lắng, xử lý trước khi cấp vào ao nuôi.
Ngoài ra, các địa phương chủ động kế hoạch nạo vét kênh, mương, khơi thông dòng chảy các công trình thủy lợi nhằm tăng khả năng chủ động lấy nước, trữ nước, tiêu thoát nước, khoanh vùng khu vực nuôi trồng khả năng thiếu nước, chuẩn bị vật tư, nhiên liệu bơm, trữ nước ngọt bổ sung cho hoạt động nuôi trồng thủy sản. Nâng cấp hệ thống cống điều tiết nước và có chế độ điều tiết nước chủ động ở các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, nhất là vùng nuôi thủy sản kết hợp với trồng lúa, hạn chế tối đa nhiễm mặn cục bộ.
Mặt khác, quản lý, giám sát chặt chẽ vùng nuôi trồng thủy sản; bám sát dự báo xâm nhập mặn, điều chỉnh mùa vụ thả giống và mật độ nuôi cho từng đối tượng phù hợp với điều kiện, tình hình thời tiết cụ thể tại địa phương, khuyến cáo người dân không nên nuôi thủy sản tại những nơi không đảm bảo điều kiện sản xuất.
Khuyến khích người dân áp dụng khoa học – kỹ thuật vào nuôi trồng thủy sản và nhân rộng các mô hình nuôi an toàn ít thay nước; chăm sóc và quản lý chặt chẽ môi trường nuôi, nhất là quản lý thức ăn, tăng cường sử dụng vi sinh nhằm cải thiện chất lượng nước, góp phần hạn chế việc thay nước thường xuyên, giảm chi phí sản xuất nhằm ứng phó, hạn chế thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn gây ra. Đồng thời, tổ chức quan trắc môi trường để kịp thời phổ biến, tuyên truyền đến người nuôi trồng thủy sản có kế hoạch sản xuất phù hợp.
An Nhiên