Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, cần sớm hoàn thiện Quy hoạch không gian biển quốc gia

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Sáng ngày 16/8 tại Hà Nội, Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ NN&PTNT) phối hợp với báo Nông thôn ngày nay/Dân Việt tổ chức tọa đàm trực tuyến “Phát triển Nuôi trồng thuỷ sản trên biển – Cơ hội và thách thức”. Các chuyên gia đã cùng nhau phân tích về những thuận lợi, khó khăn của nghề nuôi biển hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp thúc đẩy nuôi biển theo chuỗi giá trị, đáp ứng yêu cầu của thị trường và hội nhập.

Nhiều cơ hội để phát triển nghề nuôi biển

Với đường bờ biển dài 3.260km và 1 triệu km mặt biển cùng nhiều eo vịnh, đảo, nước ta có tiềm năng lớn để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, nuôi biển còn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước thông qua hàng loạt các chính sách, chủ trương. Cụ thể, năm 2017 đã có Nghị quyết 09 về phát triển kinh tế biển và Luật Thủy sản được ban hành đã tạo hành lang pháp lý rất lớn để phát triển kinh tế thủy sản. Theo ông Trần Công Khôi, Trưởng phòng Giống và thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) đến năm 2018, chúng ta có Nghị quyết số 36 nhấn mạnh đến phát triển kinh tế thủy sản. Năm 2021, Thủ tướng cũng đã phát hành Đề án nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

Các khách mời tham gia tọa đàm trực tuyến. Ảnh: PV/Vietnam+

Được biết, thời gian qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã hỗ trợ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong nuôi trồng thủy sản trên biển cho bà con ở Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Kiên Giang và đang tiếp tục triển khai ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Các mô hình đều hướng đến các sản phẩm nuôi có giá trị kinh tế cao như cá song, cá giò, tôm hùm, giáp xác, nhuyễn thể…, nhờ đó diện tích nuôi biển chuyển sang công nghệ mới ngày càng tăng. Tuy vậy, con đường đưa công nghệ từ doanh nghiệp, viện nghiên cứu về với người dân còn gặp nhiều trở ngại bởi không phải công nghệ nào cũng phù hợp với điều kiện đầu tư của bà con, với từng vùng miền.

Bà Nguyễn Thị Toàn Thư – Chuyên viên phụ trách lĩnh vực Nuôi trồng thủy sản – Chi cục Thủy sản tỉnh Khánh Hòa cho biết: Khánh Hòa có nhiều lợi thế trong nuôi biển, trong đó có 3 vịnh lớn rất thuận lợi để nuôi biển. Bên cạnh đó, tỉnh có nhiều cơ sở nghiên cứu, viện nghiên cứu chủ động sản xuất được nhiều con giống mới chất lượng, năng suất cao. Nghề nuôi biển của tỉnh chiếm trên 50% và đạt trên 20.000 tấn sản phẩm mỗi năm, đã có một số doanh nghiệp đầu tư nuôi lông bè HDPE công nghệ Na Uy. Các cơ quan chức năng đang xây dựng các chính sách hỗ trợ ngư dân chuyển đổi lồng nuôi sử dụng vật liệu truyền thống sang lồng nuôi sử dụng vật liệu mới HDPE. Một số mô hình nuôi cua biển, rong biển… cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Tỉnh Khánh Hòa đã xây dựng Đề án thí điểm nuôi biển công nghệ cao với diện tích khoảng 3.300 ha, từ ven bờ đến 3 hải lý và đề xuất thêm vùng mới từ 3 – 6 hải lý, quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh tại các vùng biển kín, vùng biển hở. Đây là bước đi nhỏ để vươn ra biển lớn. Hiện nay Đề án đã được tỉnh thông qua và sẽ trình Chính phủ phê duyệt trong thời gian tới. 

 

Mô hình nuôi thủy sản kết hợp du lịch của STP Group. Ảnh: ST

Vẫn còn đó những thách thức 

Nước ta có tiềm năng lớn để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển. Tuy nhiên thực tế cho thấy, quy mô nghề nuôi biển ở nước ta phần lớn là manh mún nhỏ lẻ, diện tích nuôi biển mới chỉ chiếm khoảng hơn 20% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản cả nước. Phần lớn vật liệu lồng nuôi được làm từ gỗ hoặc tre, quả phao xốp nổi và khối xốp. Lồng nuôi thô sơ nên không chịu được sóng gió, dễ bị sóng đánh hư hỏng, còn vật liệu xốp gây ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng sau thời gian bị thải bỏ.

Con giống, thức ăn phục vụ nuôi biển còn hạn chế, việc xử lí chất thải từ nuôi biển chưa được quan tâm, nhiều vùng nuôi thường xuyên bị thiệt hại bởi dịch bệnh. Đặc biệt, nhiều nơi đang xảy ra xung đột giữa nuôi trồng thủy sản trên biển và phát triển du lịch, công nghiệp, do đó bà con ngư dân chưa thực sự yên tâm đầu tư lâu dài cho lĩnh vực này. Rất ít doanh nghiệp tham gia đầu tư nuôi biển quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, máy móc thiết bị còn đơn giản, thiếu con giống, thức ăn và công nghệ lồng nuôi lạc hậu.

Ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp Hội nuôi biển Việt Nam đề xuất: Ngành nuôi biển muốn phát triển thì cần thêm nhiều chính sách hỗ trợ, hiện nay Quy hoạch không gian biển quốc gia đang bị chậm tiến độ. Chúng ta đều biết rất khó kêu gọi ngư dân đầu tư vào công nghệ mới như lồng nhựa HDPE nếu họ không có quyền sử dụng vùng biển đó lâu dài. Do đó, sau khi có Quy hoạch không gian biển quốc gia, phải sớm giao khu vực biển cho các tổ chức, cá nhân để nuôi trồng thủy sản trên biển. 

Phát triển nuôi trồng biển bền vững. Ảnh: ST

Bên cạnh đó, tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam liên quan đến nuôi biển đang trong quá trình xây dựng, tới lúc phê duyệt mất rất nhiều thời gian. Vì vậy, các địa phương cần xây dựng tiêu chuẩn cơ sở để thực hiện. Không có tiêu chuẩn, quy chuẩn thì không có cơ sở pháp lý để công nhận.

Nuôi biển kết hợp với du lịch

Bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng giám đốc Công ty CP Tập đoàn STP Group cho rằng ngành nông nghiệp cần quy hoạch nuôi trồng thủy sản trên biển gắn với du lịch. Đây là nét đẹp tự nhiên, gia tăng giá trị cho bà con ngư dân. Đơn cử như Hạ Long, đi qua làng chài, thực tế vẫn là các phao xốp, nếu kết hợp được có thể quảng bá du lịch Việt Nam.

Liên quan đến chủ trương của Nhà nước là giảm khai thác và tăng nuôi biển vì nuôi nội địa đã ở mức trần, ông Trần Công Khôi, Trưởng phòng Giống và thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) mong muốn Việt Nam cần có những “thành phố nuôi trên biển” – ở đó, các lồng bè xếp đều nhau như một thành phố, nếu kết hợp được với du lịch là điều rất tuyệt vời. Do vậy, các tỉnh cần phải nhanh chóng tạo ra giải pháp để phát triển hài hòa giữa du lịch và nuôi thủy sản biển. 

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho rằng, để phát triển du lịch cộng đồng ở các vùng nuôi biển, hai ngành này cần phải nâng cấp trình độ chuyên môn. Để cả hai ngành này phát triển cùng nhau và tận dụng tốt mặt nước biển, cần tích hợp nhiều ngành kinh tế biển khác nhau. Ông Dũng tin rằng, việc tích hợp này sẽ giúp Việt Nam phát triển một ngành kinh tế biển bền vững và hiệu quả.

>> Hải sản xuất khẩu của Việt Nam lại đang bị Ủy ban châu Âu áp thẻ vàng IUU về các vấn đề liên quan đến đánh bắt, khai thác bất hợp pháp. Việc gỡ thẻ vàng IUU đến nay đã 5 năm nhưng chưa thành công. Điều này càng đòi hỏi Việt Nam phải giảm khai thác hải sản từ tự nhiên, tăng nuôi trồng và đây cũng là hướng đi chiến lược, được Bộ NN&PTNT coi là một chính sách giúp cân bằng giữa nhu cầu của con người với bảo tồn tài nguyên biển và phát triển bền vững.

Thùy Khánh

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!