(TSVN) – Trong phiên thảo luận chuyên đề thuộc Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp cùng tỉnh Bắc Ninh tổ chức ngày 10/5, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình Luân đã có những chia sẻ về định hướng nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực thủy sản và kiểm ngư.
Những năm qua, ngành thuỷ sản đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tổng sản lượng thuỷ sản năm 2024 đạt gần 9,7 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu gần 10,03 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 3 quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp sản phẩm thủy sản toàn cầu. Để đạt được những kết quả nổi bật trên, có sự đóng góp không nhỏ của khoa học công nghệ.
Theo Cục trưởng Trần Đình Luân, ngành thủy sản vẫn có nhiều lợi thế và còn dư địa để phát triển. Thực tế cho thấy, ngành có thể phát triển ổn định và tăng trưởng cao hơn nữa nếu sử dụng hợp lý các nguồn lực tự nhiên, xã hội và ứng dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, thân thiện môi trường.
Công nghệ tuần hoàn, khép kín giúp tăng năng suất và chất lượng thủy sản nuôi. Ảnh: ST
Thời gian qua, hoạt động khoa học công nghệ (KHCN) trong lĩnh vực thuỷ sản đã có khởi sắc, thu hút được các nguồn lực trong nước và quốc tế để phát triển toàn diện các khâu trong chuỗi các sản phẩm chủ lực như: Ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn giống, sản xuất các chế phẩm sinh học, một số thức ăn thủy sản; ứng dụng công nghệ cao trong nuôi thâm canh/siêu thâm canh; ứng dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng, kiểm soát môi trường nuôi; ứng dụng công nghệ cao trong phòng trị dịch bệnh; nghiên cứu và cải tiến ngư cụ, trang thiết bị phục vụ quy trình kỹ thuật khai thác phục vụ sản xuất; ứng dụng ngư cụ chọn lọc phục vụ cho công tác bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản và ứng dụng các dây chuyền chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng, đảm bảo an toàn thực phẩm,…
Tuy nhiên, ông Luân cho rằng, hoạt động KHCN vẫn chưa xứng tầm và chưa thực sự là đông lực dẫn dắt ngành thủy sản phát triển. Trong đó, nghiên cứu tiên phong, tiền đề để phát triển các sản phẩm mới như nuôi biển công nghiệp, rong tảo biển, cá cảnh, chế biến dược liệu và mỹ phẩm,…vẫn còn hạn chế.
Trong sản xuất giống, chất lượng giống còn thấp, phụ thuộc vào nước ngoài; tỷ lệ sống của cá tra giai đoạn ương giống còn chưa cao. Giống cá biển vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng, giống tôm hùm, nhuyễn thể, … cơ bản vẫn phụ thuộc và khai thác tự nhiên, rủi ro về dịch bệnh, ô nhiễm môi trường.
Về công nghiệp chế biến, đã có những doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với quy mô và doanh số một số mặt hàng lớn nhất thế giới như: Tôm của Minh Phú, cá tra của Vĩnh Hoàn, tuy nhiên tỷ lệ sản phẩm chế biến sâu còn ít, sản phẩm phi thực phẩm từ phụ liệu và thủy sinh vật chưa được phát triển mạnh mẽ.
Các nghiên cứu về thị trường, quản trị chuỗi giá trị và phục vụ xây dựng chính sách còn ít hoặc thiếu tính thực tế và chưa bao hàm hết sự phát triển linh hoạt của người tiêu dùng và của các phân khúc thị trường trong nước và quốc tế. Nghiên cứu các nhiệm vụ KHCN hiện nay vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún chưa gắn kết.
Về định hướng nhiệm vụ phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo lĩnh vực thủy sản, thời gian tới Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ tập trung vào các nội dung sau:
(i) Xây dựng các chương trình, Dự án KHCN dài hơi để nghiên cứu chọn tạo giống thuỷ sản có khả năng sinh trưởng nhanh, kháng bệnh và chống chịu tốt với điều kiện môi trường bất lợi, đáp ứng điều kiện nuôi công nghiệp.
(ii) Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ nuôi tiên tiến, ứng dụng công nghệ số AI, IOT nhằm sử dụng tiết kiệm nước và thức ăn đảm bảo môi trường bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm thiểu việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản, đảm bảo sản phẩm an toàn thực phẩm, giảm phát thải khí nhà kính theo kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh.
(iii) Xây dựng các chương trình nghiên cứu, phát triển công nghệ trong sản xuất giống và nuôi thương phẩm các đối tượng tiềm năng: Nuôi cá biển tập trung, công nghiệp hiệu quả, bền vững môi trường: nuôi cá nước mặt lớn (sóng, hồ chứa) quy mô công nghiệp; công nghệ sản xuất giống rong chất lượng cao và xây dựng quy trình công nghệ trồng phù hợp ở các vùng biển mở.
(iv) Xây dựng chương trình dịch tễ học bệnh thủy sản cho các đối tượng có giá trị kinh tế, đặc biệt với các bệnh mới nổi trên các đối tượng nuôi chủ lực; nghiên cứu sản xuất vaccine, thuốc thú y thuỷ sản, sản phẩm thay thế kháng sinh; xây dựng quy trình giám sát chủ động, hướng dẫn phòng trị bệnh hiệu quả và đảm bảo an toàn thực phẩm.
(v) Ứng dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ phân tích, cảnh bảo thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phòng chống dịch bệnh, tạo điều kiện cho phát triển bền vững kinh tế thủy sản, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thuỷ sản.
(vi) Nghiên cứu phát triển công nghệ khai thác, cơ giới hóa, hiện đại hóa tàu cá bảo quản hải sản tiên tiến, ứng dụng công nghệ số nâng cao giá trị gia tăng, giảm tổn thất sau khai thác, bảo đảm an toàn thực phẩm, giảm phát thải khí nhà kính.
(vii) Nghiên cứu công nghệ mới trong chế biển các sản phẩm có giá trị gia tăng có nguồn gốc tử thủy sản nhằm đa dạng hóa sản phẩm phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
(viii) Tiếp tục triển khai 02 sản phẩm quốc gia gồm: Sản phẩm cá da trơn Việt Nam chất lượng cao và các sản phẩm chế biến từ cá da trơn; sản phẩm tôm nước lợ (gồm tôm sú và tôm thẻ chân trắng) và dự kiến bổ sung 01 sản phẩm mới cá biển đến năm 2030 theo Quyết định số 157/QĐ-TTg ngày 01/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030.
(ix) Tiếp tục xây dựng, quản lý, vận hành khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản, kiểm ngư, hệ thống thông tin chuyên ngành thủy sản; hệ thống giám sát tàu cá; hệ thống thông tin chỉ huy điều hành kiểm ngư, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý của Cục; tổ chức xây dựng, quản lý, hướng dẫn hệ thống cơ sở dữ liệu về phát triển nguồn lợi thủy sản thuộc cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản. Kết nối, liên thông, khai thác, chia sẻ hiệu quả dữ liệu, bảo đảm “đúng, đủ, sạch, sống”.
(x) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế đa phương, song phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia, các viện nghiên cứu, trường đại học hàng đầu thế giới về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Thùy Khánh