(TSVN) – Ông CK, người sáng lập Rongbient, muốn cải thiện hai “nút thắt” của ngành tôm Việt Nam gồm lợi nhuận thấp và suy thoái môi trường bằng một mô hình mới. Trong đó, rong biển được sử dụng như máy lọc sinh học, thành phần thức ăn và nguồn thu nhập bổ sung cho các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ.
Theo CK, ngành nuôi tôm ở Việt Nam đang chật vật kiểm soát tác động tiêu cực đến môi trường khi mỗi tấn tôm từ các trang trại thâm canh thải ra tới 14 tấn khí carbon, trong khi thức ăn chủ yếu phải nhập khẩu và lượng sử dụng kháng sinh vẫn ở mức cao. Mặt khác, mô hình nuôi tôm quảng canh của các hộ nông dân nhỏ lẻ không có hệ thống xử lý nước hiệu quả nên tỷ lệ sống của tôm thấp, ao nuôi suy thoái. Lúc này, rong biển, đặc biệt là rong câu chỉ (Gracilaria), chính là giải pháp nâng cao năng suất và tăng thu nhập cho nông dân, đồng thời giảm chi phí và tác động môi trường.
Tuy nhiên, Rongbient sử dụng lưới phủ trên mặt ao nuôi tôm để tận dụng ánh sáng mặt trời trực tiếp và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng. Lưới cần có mắt khá nhỏ vì rong Gracilaria dễ gãy. Nhờ nuôi kết hợp với tôm, công ty không cần bổ sung thêm dưỡng chất.
Trong lần thử nghiệm đầu tiên, rong biển đạt tốc độ sinh trưởng 2,5%/ngày; sau đó tăng lên 3,2%/ngày, và còn tiếp tục cải thiện. Rongbient áp dụng mô hình cho thuê để khuyến khích nông dân sử dụng.
“Chúng tôi không yêu cầu nông dân phải thay đổi canh tác, chỉ cần đặt hệ thống trồng rong biển lên mặt ao và để nó phát triển và chúng tôi tới thu hoạch hai tháng một lần. Nông dân chỉ cần trả phí thuê khi đến kỳ thu hoạch.
Chúng tôi hiện có một vài hecta trồng rong thí điểm, giúp nông dân tăng gấp đôi thu nhập nhờ bán rong biển cũng như cải thiện tỷ lệ sống của tôm, từ 33% lên 42%”, ông CK nói.
Sau thu hoạch, Rongbient chế biến rong biển thành phụ gia thức ăn cho các trang trại nuôi tôm thâm canh. Các chất phụ gia từ rong biển đang dần được ưa chuộng tại châu Á nhờ hiệu quả tốt trong việc giảm tỷ lệ mắc các bệnh như EHP, WFS và EMS, đồng thời cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), thậm chí chống lại vi khuẩn Vibrio.
Tại Việt Nam, Rongbient đã ghi nhận những kết quả tích cực tương tự trong giai đoạn thử nghiệm. Người sáng lập Rongbient cho biết: “Tỷ lệ sống đã cải thiện, sản lượng cũng tăng 5- 8%. Mặc dù FCR giảm, nhưng trọng tâm chính của chúng tôi là các chất phụ gia thức ăn gồm kháng sinh, probiotic… Đến nay, chúng tôi đã giảm được 20% lượng sử dụng. Công ty sẽ hợp tác với một trong những nhà xuất khẩu tôm lớn nhất để cải thiện những con số trên với mục tiêu cắt giảm 50% lượng phụ gia.
Thức ăn chiếm 50-70% tổng chi phí nuôi tôm ở Việt Nam, trong đó các chất phụ gia chiếm 20-30%. Nếu có thể cắt giảm 50% phụ gia này có thể giảm 10-15% tổng chi phí. Nếu chúng ta cũng có thể cải thiện tỷ lệ sống, thì lợi nhuận của nông dân có thể tăng gấp đôi. Đó là giá trị mà chúng tôi mang lại”.
Các đối tác của Rongbient rất quan tâm đến hệ thống nuôi tôm và trồng rong biển, đồng thời mong muốn áp dụng hệ thống này cho cộng đồng nếu công ty có thể mở rộng 20.000-30.000 ha. Các trang trại nuôi tôm ở Cà Mau hiện chiếm diện tích lên đến 280.000 ha nên tiềm năng rất lớn. Mặc dù kết quả ban đầu cho đến nay rất tích cực, nhưng việc tìm kiếm nguồn vốn để mở rộng giải pháp này đang gặp nhiều khó khăn.
“Chúng tôi đang cố gắng huy động 500.000 USD để mở rộng cung ứng và cải thiện quy trình, nhưng Việt Nam một thị trường rủi ro hoặc quá nhỏ đối với các nhà đầu tư quốc tế, trong khi các nhà đầu tư địa phương thường thích những ý tưởng đã được chứng minh thành công ở nước ngoài và có thể được điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh địa phương. Tuy nhiên, tôi vẫn nỗ lực tìm kiếm nguồn vốn bởi mô hình nuôi tôm của Rongbient là một giải pháp thực tế và hiệu quả”, ông CK cho biết thêm.
Dũng Nguyên
Theo Thefishsite